ĐGH BÊNÊĐÍCTÔ XVI VÀ SỰ PHỤC HƯNG THÁNH THỂ

1. Một khởi đầu muộn

Giống như nhiều sinh viên nghiên cứu sau đại học về thần học Công giáo vào thời điểm Hồng Y Joseph Ratzinger được bầu chọn làm Giáo Hoàng, tôi không hy vọng gì nhiều khi nghe tin đó. Ấn tượng chung của nhiều giáo sư của tôi là Hồng Y Joseph Ratzinger là một nhà tư tưởng cứng nhắc, độc đoán. Tôi cho rằng những điều ngài viết có thể sai. Và do đó, tôi đã không đọc các tác phẩm của ngài – mãi cho đến khi tôi vào lớp học của Cha Richard McBrien, nay đã qua đời.

Có lẽ Cha McBrien không được biết đến ngay lập tức như một người ủng hộ Hồng y Ratzinger, nhưng Cha McBrien, đã làm tôi kinh ngạc khi Cha nói về vẻ đẹp của thông điệp đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, Deus Caritas Est – Thiên Chúa là Tình yêu. Cha McBrien lưu ý cách mà Đức cố Giáo Hoàng đã giải thích lời tuyên xưng cốt lõi của Kitô giáo một cách rõ ràng như vậy. Thiên Chúa là tình yêu. Và rằng Thiên Chúa là tình yêu đã ngự giữa chúng ta, thay đổi chính tiến trình lịch sử cá nhân của tôi và toàn bộ lịch sử nhân loại. Câu trả lời thích hợp của chúng ta dành cho Chúa Giêsu Kitô là trao ban chính mình, thông qua tình yêu dành cho Thiên Chúa và dành cho người lân cận.

‍2. Ngài đã mở mắt tôi

Tôi đã bị cuốn hút. Tôi bắt đầu đọc toàn bộ tác phẩm của Đức Hồng Y Ratzinger, khám phá ra rằng ngài không phải một học giả độc đoán mà là một nhà thần học đã tìm ra những cách mới lạ để chiêm nghiệm về mầu nhiệm tình yêu được tiết lộ trong Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã mở mắt tôi để hiểu về phụng vụ, vốn không dựa trên hoạt động của con người mà là cuộc xuất hành của tình yêu của Thiên Chúa, một cuộc xuất hành mà trong đó con người được mời gọi đáp lại bằng cách trao tặng món quà là toàn bộ con người chúng ta. Ngài đã chỉ cho tôi thấy rằng một nền chính trị bị tước khỏi bất cứ nguồn siêu việt thần thánh nào cuối cùng sẽ trở thành tôn giáo của riêng nó, thậm chí có khả năng dẫn đến không phải tự do mà là chủ nghĩa toàn trị. Ngài đã làm cho các học thuyết truyền thống của Kinh Tin Kính ngân vang một bài hát mới, đánh thức tôi về một sự chính thống năng động, nơi đức tin có thể đáp ứng các cuộc khủng hoảng sâu sắc nhất do chủ nghĩa hiện đại gây ra, bao gồm cả sự tục hóa, chủ nghĩa cá nhân, tăng trưởng kinh tế vô độ, không kiểm soát và những tác hại mà chúng ta đã gây ra cho trật tự được Thiên Chúa tạo ra. Ngài đã làm điều này trong khi tham gia đối thoại với những nhân vật quan trọng của đời sống trí thức ở Châu Âu – cho dù họ có theo Công giáo hay không.

Chính trong Tông Huấn Sacramentum Caritatis – Bí tích tình yêu – của Đức Bênêđíctô XVI, tôi nhận ra rõ nhất các chủ đề này kết hợp với nhau như thế nào. Trong văn kiện này, được viết sau Thượng hội đồng về Bí tích Thánh Thể được tổ chức khi Thánh Gioan Phaolô II làm Giáo Hoàng, Hồng y Ratzinger đưa ra giáo lý về Bí tích Thánh Thể chung quanh ba chiều kích – Bí tích Thánh Thể là một mầu nhiệm cần phải tin, cử hành và sống. Tôi tin rằng mỗi chiều kích này đều quan trọng để Giáo hội ghi nhớ khi chúng ta thực hiện Cuộc Phục hưng Thánh Thể này trong những năm tới. Suy cho cùng, Đức Bênêđíctô XVI nhắc nhở chúng ta trong văn kiện này rằng “Mọi cuộc canh tân, một cách nào đó, đều liên kết với sự tái khám phá đức tin vào sự hiện diện của Chúa giữa Dân Người trong Bí tích Thánh Thể” (Sacramentum Caritatis, số 6). Dưới góc độ này, Cuộc Phục hưng Thánh Thể thực sự là một dịp cải cách trong Giáo hội, định hướng lại chúng ta theo cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu Kitô.

3. Bí tích Thánh Thể là một Mầu nhiệm đáng tin

Tông huấn Scramentum Caritatis – Bí tích Tình yêu – của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI nêu rõ tính trung tâm của Bí tích Thánh Thể đối với chính căn tính của Giáo hội. Bí tích Thánh Thể không chỉ là một thực hành tôn giáo trong những thực hành khác mà còn là cách đặc ân để Giáo hội gặp gỡ mầu nhiệm tình yêu trong Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa là tình yêu và từ thuở ban đầu, Ngài đã mặc khải chính Ngài là Đấng được yêu mến. Và trong Bí tích Thánh Thể, Ngài ngự giữa chúng ta. Khi Giáo hội tưởng nhớ đến hy tế của Chúa Kitô trên thập giá trong Thánh lễ, Ngôi Lời một lần nữa trở thành xác phàm và ngự giữa chúng ta. Một chút vật chất này – một miếng bánh nhỏ và vài giọt rượu – được biến đổi thành sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa đồng hành cùng chúng ta suốt chặng đường đời.

Đây chính là cốt lõi của đức tin Thánh Thể của Giáo hội, nơi mà buổi qui tụ Chúa Nhật của chúng ta không phải là kết quả của kế hoạch chiến lược tốt hay chiến lược kinh doanh sáng tạo do các nhà tư vấn thông minh đưa ra cho chúng ta. Giáo hội cũng không phải là cộng đồng của những người đã đạt được sự cứu độ của mình thông qua nhân đức của các thành viên. Kiểu suy nghĩ này vẫn là tội lỗi của nhiều người, một dạng của chủ nghĩa Pelagiô, vốn quan niệm rằng con người có khả năng tự mình đạt được sự cứu độ mà không cần ân sủng của Thiên Chúa, thông qua ý chí tự do và nỗ lực của bản thân, trong đó chúng ta tưởng ra rằng nếu chúng ta đủ tốt, đủ tử tế và đủ dễ chịu, thì Thiên Chúa sẽ yêu thương chúng ta.

Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI ngắt lời chúng ta: không phải vậy. Ngài viết: “Bí tích Thánh Thể chính là Chúa Kitô, Đấng tự hiến ban chính mình cho chúng ta và không ngừng xây dựng chúng ta trở thành thân thể của Ngài. Vì thế, trong liên hệ hỗ tương giữa Bí tích Thánh Thể là bí tích xây dựng Hội Thánh, với chính Hội Thánh là nơi “làm nên” Bí tích Thánh Thể, nguyên nhân thứ nhất được diễn tả trong công thức đầu tiên: Hội Thánh có thể cử hành và thờ phượng mầu nhiệm Chúa Kitô hiện diện trong Bí tích Thánh Thể chính vì Chúa Kitô đã tự hiến trước cho Hội Thánh trong hy tế thập giá. Việc Hội Thánh có khả năng “làm nên” Bí tích Thánh Thể hoàn toàn bắt nguồn từ sự tự hiến của Chúa Kitô cho Hội Thánh” (Sacramentum Caritatis, số 14).

‍4. Nhận thức chữa lành về Giáo hội

Giáo hội trước hết là một món quà của tình yêu. Do đó, Phong trào Phục hưng Thánh thể phải chú ý đến trí tưởng tượng của những người nam và nữ vốn đã coi Giáo hội là không gian của chế độ quan liêu, tai tiếng hoặc sự loại trừ. Hy tế trên bàn thờ chính là ý nghĩa của Giáo hội, và sự hiện diện của Chúa Kitô trong các nhà tạm là một sự ngắt lời mang tính tiên tri, kêu gọi mỗi người chúng ta nhận ra rằng chúng ta được Thiên Chúa, vốn là tình yêu, có sáng kiến triệu tập chúng ta trước. Sự đồng hành mục vụ trong Giáo hội, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta, thực ra là hệ quả của căn tính Thánh thể này của Giáo hội. Chúng ta không phải là người phân phát ơn cứu độ do chính mình tạo ra. Thiên Chúa Cứu Độ, như Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã nhắc nhở chúng ta trong thông điệp Spe Salvi – Niềm Hy vọng Cứu độ, và nhiệm vụ của chúng ta là mời gọi mọi người trên trái đất này biết đến sự thật này một cách cá vị.

Vì tất cả những điều này nghe có vẻ hơi phức tạp, chúng ta hãy nói về bản thân mỗi người chúng ta. Tôi đi lễ không phải vì tôi muốn tụ tập với một nhóm người có cùng chí hướng, cùng quan điểm, hoặc có những sở thích, tư tưởng tương đồng với nhau, những người ngẫu nhiên đồng ý với tôi về cùng một chuyện. Chúng ta có quan điểm chính trị khác nhau, cách làm cha mẹ khác nhau, và chúng ta cổ vũ cho các đội bóng khác nhau. Tôi đi lễ vì Thiên Chúa ngự giữa chúng ta, ở đây, trong khu phố của tôi. Trong cảnh nghèo đói của tôi, có Thiên Chúa ở đó. Và một phần không thể thiếu của Sự Phục hưng Thánh thể là học cách yêu Giáo hội đích thực, đó là khu phố nơi tôi đang sống. Thiên Chúa đã đến với mỗi người, nam và nữ này, để chia sẻ chính Ngài với họ. Nếu tôi không thể thực hiện được việc chia sẻ này, thì chính tôi là người cần thay đổi chứ không phải Thiên Chúa.

 

Tiến sĩ Tim O’Malley

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung,

từ https://www.eucharisticrevival.org

Chia sẻ Bài này:

Related posts