Thứ Tư Lễ Tro – Chủ đề: Sám hối

Câu Thánh Kinh: “Hãy sám hối”

(Mt 4,17)

Sợi chỉ đỏ :

– Bài đọc 1 (Ge 2,12-18) Ngôn sứ Gio-en kêu gọi dân do thái sám hối.

– Đáp ca (Tv 50) : bày tỏ tâm tình của người tội lỗi sám hối.

– Tin Mừng (Mt 6,1-18) ; Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ về mối nguy của thói hình thức ngay khi họ thực hành những việc đạo đức như ăn chay, cầu nguyện và bố thí

– Bài đọc II : (2 Cr 5,20—6,2) : sám hối là “làm hòa lại với Thiên Chúa”

I. Dẫn vào Thánh lễ

Với ngày Lễ Tro hôm nay, Giáo Hội bắt đầu Mùa Chay. Có lẽ hai tiếng “Mùa Chay” làm chúng ta sợ hãi vì nó khiến ta nghĩ đến một thời gian khắc khổ, buồn rầu. Đành rằng Mùa Chay là thời gian ăn năn sám hối, hy sinh hãm mình. Nhưng tất cả những việc đó đều cần thiết để có được niềm vui tái sinh với Chúa trong Lễ Phục sinh. Cũng như người nông dân phải cực nhọc gieo vãi cấy cày thì mới có được mùa thu hoạch dồi dào.

Vì vậy ngay từ đầu mùa Chay này, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Giáo Hội, Mẹ nhân lành của chúng ta, mà bước vào thời gian này với tất cả tâm hồn quảng đại và chân thành.

 

II. Gợi ý sám hối

– Thân xác chúng ta chỉ là tro bụi và sẽ trở về với bụi tro, thế mà chúng ta lại quá chìu chuộng nó đến nỗi nhiều lần phạm tội hại đến linh hồn mình.

– Biết bao lần chúng ta giả điếc làm ngơ trước những tiếng cảnh cáo của lương tâm, để buông mình theo tội lỗi.

– Ngay cả những khi làm các việc đạo đức, chúng ta cũng làm theo hình thức bề ngoài chứ không vì lòng mến Chúa yêu người thực sự.

 

III. Lời Chúa

1. Bài đọc 1 : Ge 2,12-18

Nhân dịp nạn châu chấu hoành hành gây nên nạn thất mua đói khát (Ge 2,3-9), ngôn sứ Gio-en lên tiếng kêu gọi dân do thái sám hối :

– Sám hối là quay trở về với Chúa.

– Sám hối phải xuất phát tự cõi lòng chân thực chứ không phải chỉ có những việc làm bề ngoài (“Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng)

– Vì Thiên Chúa là Đấng rất từ bi, chắc chắn Ngài sẽ tha thứ cho kẻ thực lòng sám hối.

2. Đáp ca : Tv 50

Tv này bày tỏ tâm tình của người tội lỗi sám hối :

– Một mặt, tội nhân ý thức rõ về những tội lỗi của mình.

– Mặt khác, tội nhân cũng quyết tâm trở về với Chúa.

– Và tội nhân tin chắc mình sẽ được Thiên Chúa thứ tha.

3. Tin Mừng : Mt 6,1-18

Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ về mối nguy của thói hình thức ngay khi họ thực hành những việc đạo đức như ăn chay, cầu nguyện và bố thí :

– Những việc đạo đức ấy vừa tốt vừa cần thiết.

– Nhưng điều quan trọng nhất là tâm tình khi làm những việc đó : chỉ nên làm vì lòng mến Chúa yêu người.

– Nếu chỉ làm vì mong được tiếng khen của người đời thì tất cả sẽ trở nên vô ích.

4. Thánh Thư : 2 Cr 5,20—6,2

Thánh Phaolô hiểu sám hối là “làm hòa lại với Thiên Chúa” : tội lỗi đã phá huỷ những liên hệ hài hòa giữa con người với Thiên Chúa. Sám hối là tái lập những liên hệ ấy. Thời gian sám hối chính là “thời Thiên Chúa thi ân, thời Thiên Chúa cứu độ”.

 

IV. Gợi ý giảng

1. Lịch sử và ý nghĩa thần học của Thứ Tư Lễ Tro

Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế : Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu “bụi tro” được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.

a/ Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro

Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau : “Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro ; ngày đó khắp nơi ăn chay” (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.

Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là “Đầu Mùa Chay” (Caput ieiunii), hay ” Đầu Mùa ăn chay 40 ngày” (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Đức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).

Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hòa giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi người đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình… Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhậm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Đại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Đức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.

Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Đầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Đức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.

Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Đức Giáo hoàng tập họp các giáo sĩ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Đức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhậm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Đức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài “Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên” (Immutemur, xc. Ge 2, 13).Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Đó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Đức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề : Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không (Mt 10,8).

Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời : “Ta là thân cát bụi sẽ trỏ về cát bụi” (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm : “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng” (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu “tro” đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro : “Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời” (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).

Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa, thấy người đào, chôn, lăn, khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn, khóc. Bà mẹ thấy thế, nói : chỗ này không phải chỗ con ta ở. Rồi dọn nhà ra gần chợ.

b/ Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro

Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhậm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27 ; Giob 34, 17 ; Gr 6, 26 ; 25, 34 ; Est 4,13 ; Is 58, 5 ; Dn 9,3 ; Giona 3,6 ; Giudith 4,16 ; 9,1).

Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói : “Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi“. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.

Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tồ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thư Tư Lễ Tro.

Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.

Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.

Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái ; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhậm, như đi chân không trong cuộc hành hương, vv. không còn được thực hiện như xưa, vì hoành cảnh xả hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro. (Rôma ngày 9-2-2002. Lm. Phanxicô Borgia Trần Văn Khả)

2. Sám hối là quay về

Các bài đọc hôm nay đều quy vào một chủ đề là quay về. Mỗi bài đọc triển khai một phương diện của sự quay về :

– Bài đọc 1 : từ bề ngoài quay về bề trong : “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”.

– Bài đọc 2 : quay về với Thiên Chúa : “Hãy làm hòa với Thiên Chúa”

– Bài Tin Mừng : từ cách làm những việc đạo đức cốt cho người ta thấy quay về với cách làm chỉ cốt cho Thiên Chúa thấy.

3. Cầu nguyện, ăn chay, bố thí

Tại sao trong bài Tin Mừng mở đầu Mùa Chay, Chúa Giêsu nói về cầu nguyện, ăn chay và bố thí ? Thưa vì 3 việc này, nếu được làm một cách đạo đức thật sự – nghĩa là làm không phải để được tiếng khen của người đời mà làm vì lòng mến Chúa yêu người chân thành – sẽ giúp chúng ta quay về chứ không còn lạc lối nữa (nghĩa chính xác của “sám hối” chính là “quay về”).

– Chúng ta thường quá chìu theo ý mình, đến nỗi không biết đến ý Chúa. Cầu nguyện chân thành sẽ giúp chúng ta khám phá và làm theo ý Chúa.

– Chúng ta thường quá lo cho những nhu cầu vật chất, đến nỗi không để ý đến những nhu cầu tinh thần. Ăn chay sẽ giải thoát chúng ta khỏi quá bận tâm đến các nhu cầu vật chất, tự nhiên và sẽ thoả mãn những nhu cầu tinh thần, siêu nhiên.

– Chúng ta thường quá quan tâm đến bản thân mình đến nỗi quên để ý tới người khác. Bố thí là một cách giúp ta hy sinh bản hân để biết chia sẻ với người khác.

4. Hãy làm hòa lại với Thiên Chúa

Mọi người chúng ta đều có kinh nghiệm về sự đổ vỡ, bất hòa… Hai người bạn trở thành lạnh nhạt, hai người tình trở thành xa lạ, hai vợ chồng trở thành người dưng…

Đổ vỡ và bất hòa sinh ra đau khổ, tiếc nuối cho các đương sự, và còn ảnh hưởng tới một số người khác như con cái, anh em, bạn bè…

Thánh Kinh đã không ngại dùng hình ảnh loài người để mô tả Thiên Chúa : Thiên Chúa là một người tình, một người chồng hết mực yêu thương loài người. Nhưng mối tình này mang tính đơn phương nhiều hơn là song phương, và đã bao lần đổ vỡ.

Khi đổ vỡ, phía nào yêu tha thiết hơn sẽ tích cực tìm cách làm hòa hơn. Thiên Chúa chính là phía này. Ngài đã làm rất nhiều cách. Và cách cuối cùng vượt quá sức tưởng tượng của loài người : Ngài đã cho Con Một thân yếu của mình hạ mình đến với loài người, ngõ lời yêu thương với loài người, sống chung với loài người, tha thứ hết mọi tội lỗi của loài người và chết thay cho loài người.

Thiên Chúa đã đi bước trước và Ngài đã làm tất cả những gì có thể làm. Chỉ còn chờ chúng ta. Chúng ta sẽ làm gì để làm hòa lại với Ngài ?

5. Thế nào là hoán cải

Có 2 anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.

Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hằng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.

Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa : người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.

Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh :

. Trước tiên là đám mây trên trời : thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mấy ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.

. Kế đến là một cái cây xanh : nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.

. Và sau cùng chính là thân xác con người : các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi : có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa : sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.

Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận : tâm hồn con người cũng thế : muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.

Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp :

. Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi ? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi ? Vị ẩn sĩ trả lời : quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng : tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó,, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.

. Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp ? Vị ẩn sĩ cũng trả lời : cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng : Phải quý chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ánh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.

Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta :

. Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi ở thế bình bình : chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm. Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai : không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.

. Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn. Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.

. Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy :

Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó.

Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.

Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.

6. Tro

Là bụi đường, cuốn theo chiều gió, là vật dơ lẻn vào khắp chốn khắp nơi, ai cũng tìm cách lau chùi cho sạch.

Là cái gì còn lại đó, khi tất cả đã cháy tiêu tan,

Là đô thị hoang tàn, vì những kẻ sát nhân đã phát điên nổi lửa ;

Là mối tình bằng hữu hôm nay không còn nữa, vì tính ích kỷ của đôi bạn cố tri ;

Là tình yêu của đôi vợ chồng, đã tan vỡ vì thói kiêu căng trong lòng anh, trong lòng chị

Là vẻ đẹp của ngày nào, nay trở thành nắm tro tàn lạnh lẽo

Là cái gì còn lại đó, khi niềm hy vọng của ta bị tiêu tan.

Là cái gì chung cuộc còn lại đó, khi kiếp sống của ta đến hồi kết liễu.

Thế con người là gì ?

Con người không thể làm được chi, mà một ngày kia lại chẳng thành tro bụi.

Tro tàn là dấu hiệu cho thấy ta bé nhỏ, dứt khoát không thể làm được chi, Để có cơ may tồn tại.

Đa-vít, vua Ít-ra-en, tay anh hùng hào kiệt, đương lúc tuổi xuân, nhận biết mình tội lỗi, đã rắc tro lên đầu.

Vua thánh Lu-y, thấy mình sắp chết, đã bảo gia nhân khiêng đặt nằm trên tro, để đi nghênh đón Chúa.

Tro bám vào thân thể, như lớp bùn dơ :

Có ai còn nhận ra đó là vua nữa ! Còn đâu vàng bạc, còn đâu quyền thế ! Còn gì lôi cuốn, còn gì trẻ trung !

Khi lớp sơn hào nhoáng đã rơi rồi, thì còn lại con người thôi, với tội lỗi và yếu đuối, chờ Chúa đến thanh tẩy,

Gột rửa cho sạch mọi vết dơ, và đưa vào dự tiệc. (Charles Singer Nguyễn Ngọc Tỉnh phiên dịch)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế : Anh chị em thân mến, ngôn sứ Giôen đã nói với chúng ta : Hãy trở về với Thiên Chúa là Chúa của anh em, bởi vì Người nhân hậu từ bi, nhẫn nại và giàu ân nghĩa, thường bỏ ý định giáng phạt. Tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :

1. Các ngươi hãy ăn chay / khóc lóc / rên siết mà hết lòng trở về với ta / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / biết chân thành sám hối vì những lỗi lầm đã phạm / và quyết tâm đổi mới đời sống trong mùa Chay thánh này.

2. Giữ chay tránh xa tội lỗi / sống bác ái với những người chung quanh / góp phần giải thoát những ai đau khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi Kitô hữu / biết giữ chay đúng như Chúa đã dạy.

3. Ta là thân cát bụi / sẽ trở về cát bụi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu luôn ghi nhớ chân lý này / để dừng quá bám víu vào danh vọng / địa vị / của cải trần gian / vì tất cả đều sẽ qua đi.

4. Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh / nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tích cực sống lời Chúa / để mùa Chay thánh đang về / đem lại cho chúng ta nhiều lợi ích thiêng liêng.

Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con : Anh em hãy có lòng từ bi, như Cha anh em là Đấng từ bi. Xin Chúa ban Thánh thần Tình yêu để Người làm cho chúng con trở nên những sứ giả đem tình thương của Chúa đến cho hết thảy mọi người. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh lễ

– Trước kinh Lạy Cha : Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện không phải để cho người ta thấy, mà chỉ để Thiên Chúa là Cha chúng ta thấy. Vậy chúng ta hãy hướng trọn tâm hồn lên Ngài và dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha sau đây.

– Trước lúc Rước Lễ : “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng hoàn toàn vô tội, nhưng sẵn sàng hiến thân chịu chết để xoá tội trần gian. Phúc cho ai được mời…

VII. Giải tán

Mùa Chay đã bắt đầu. Anh chị em hãy bắt đầu quay về : quay về với lương tâm trong lòng mình, quay về với tình nghĩa anh chị em vả quay về với Thiên Chúa là Cha nhân lành của chúng ta.

 

Nguồn: Gp. Cần Thơ

Chia sẻ Bài này:

Related posts