Hành trình thiêng liêng không phải dành cho người muốn bình an sớm, mà là, dành cho người can đảm muốn sống sự thật, bởi vì, sự thật sẽ giải phóng chúng ta, ánh sáng chiêm niệm đầu tiên không chiếu vào cái đẹp, nhưng, chiếu vào cái ta cố tránh nhìn từ rất lâu rồi.
Ánh sáng chiêm niệm không làm ta thành một người mới, nó chỉ lấy đi từng lớp vỏ bọc, cho đến khi ta không còn gì để bọc nữa, và chính lúc đó, ta có cơ hội được chạm vào cái thật nhất bên trong, nhưng, hành trình này, không hề dễ dàng, vì cái mới chưa đến, trong khi cái cũ đã rời, ta đứng giữa khoảng trống, không còn chỗ dựa, đó là lý do khiến ta phát sợ: sợ mất đi chính mình, trong khi chưa thấy được điều gì phía sau sự mất đó, có người gọi là đêm tối của linh hồn, không phải là linh hồn tối lại, mà vì, ta không còn ánh sáng giả để nhìn nữa.
Ánh sáng chiêm niệm vạch trần một cạm bẫy rất tinh vi trên đường thiêng liêng “bản ngã khoác áo chiêm niệm”: khi ta tưởng mình đã vượt qua tất cả, thì chính lúc đó, ta đang lạc xa nhất; khi ta nghĩ mình đã thấy, thì chính lúc đó, ta đang mù tối nhất; mọi cảm giác tưởng mình đã chạm đến Thiên Chúa đều là sản phẩm của cái tôi: ta cảm thấy mình đặc biệt, sâu sắc, ta không còn lao đầu vào tranh cãi đúng sai, mà chỉ im lặng nhìn người khác bằng ánh nhìn từ trên xuống, với những đánh giá: lời nói của họ sao nông quá, cách sống của họ sao thô quá, cảm xúc của họ sao mạnh quá… Chỉ cần một sự kiêu hãnh rất nhỏ, cũng đủ tách ta ra khỏi thế giới thật, để tránh cạm bẫy này, ta phải chậm lại, không vội kết luận, không vội gán nhãn cho kinh nghiệm của mình, và chính lúc ấy, một sự khiêm cung rất tự nhiên trồi lên, không phải khiêm cung của người cố tỏ ra khiêm cung.
Ánh sáng chiêm niệm làm ta đau, vì nó lấy đi quyền đổ lỗi, ta không còn trách ai được nữa: không trách gia đình, không trách xã hội, không trách số phận, mọi điều ta thấy đều quay về bên trong mình, việc nhận trách nhiệm tuyệt đối này không hề dễ chịu, bởi vì, nó khiến ta thấy mình trần trụi, không còn nơi bấu víu, giống như ta đang đứng giữa sa mạc và nhận ra: bấy lâu nay, những ốc đảo, ta nhìn thấy đều là ảo ảnh của tâm trí. Khi ấy, ánh sáng chiêm niệm giống như một vết thương được mở ra để lấy mủ, không thể không đau, nhưng đó lại là, sự đau dẫn đến chữa lành. Ánh sáng chiêm niệm không đến để làm ta khổ, nó đến để ta nhìn thấy điều khiến ta khổ bấy lâu nay; nó không phá hỏng ta, nó chỉ phá đi những thứ chưa bao giờ là ta.
Ánh sáng chiêm niệm không làm cho ta trở nên siêu việt, hay cao thâm hơn người khác, nó chỉ làm cho ta sống thật hơn, thật đến mức, ta không còn diễn để làm vừa lòng ai: buồn thì biết mình buồn, vui thì biết mình vui, không đòi phải khác đi, nhờ vậy, mọi cảm xúc dù mạnh đến đâu, đều trôi qua rất nhanh, và rồi, ta không còn xử lý mọi việc bằng phản ứng tự nhiên, nhưng, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Ánh sáng chiêm niệm đến, không phải, để ta trốn khỏi đời sống, mà là, để ta đi vào đời sống với một trái tim thật thà: đời sẽ không bớt thử thách, nhưng, ta sẽ bớt bầm dập; đời sẽ không bớt biến động, nhưng, ta sẽ bớt xoay theo; đời sẽ không bớt khó khăn, nhưng, ta sẽ bớt tự làm khó mình; ta đi qua những cơn bão, không phải vì ta mạnh hơn, mà vì, ta không còn chiến đấu với chính mình nữa, và chính lúc đó, đời sống sẽ mở cho ta những cánh cửa, mà trước đây, ta tìm mãi không thấy. Chiêm niệm không phải là hành trình đi lên, mà là, một hành trình đi vào, đi vào những vùng tối, chỉ có sự sống đang tự nở ra, và ta không trở thành một người khác, ta vẫn là chính mình, không thêm gì, chỉ bớt đi những thứ từng làm ta mệt mỏi, ta bớt chạy, bớt diễn, bớt cố gắng làm vừa lòng đời, và trong sự bớt ấy, một khoảng trống trong lòng mở ra, khoảng trống tự do của con cái Thiên Chúa, và khi đó, ta sẽ như em thơ trong lòng mẹ hiền, luôn được trìu mến, ấp ủ, yêu thương. Ước gì được như thế!