Các trình thuật Thánh Kinh hôm nay hé mở cho chúng ta thấy mầu nhiệm vĩ đại: Thiên Chúa đã trở nên con người qua việc Nhập Thể của Chúa Giêsu Kitô. Đây không chỉ là những lời tiên tri và tường thuật lịch sử, mà còn là lời mời gọi chúng ta đi sâu vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa, Đấng muốn ở cùng chúng ta mọi ngày trong cuộc đời giữa những bất toàn và tội lỗi của kiếp người.
- Lời Tiên Tri Về Đấng Emmanuel
Đoạn Thánh Kinh từ sách Isaia mở đầu bằng lời Chúa phán với vua Akhat: “Ngươi cứ xin Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh” (Is 7: 11). Vua Akhat từ chối, viện cớ không muốn thử thách Chúa, nhưng ngôn sứ Isaia đáp lại: “Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel” (Is 7: 14). Lời tiên tri này, vốn được viết vào thế kỷ VIII trước Công Nguyên, không chỉ là một dấu chỉ lịch sử cho nhà Đavít đang suy tàn, mà còn là lời hứa về Đấng Mêsia sẽ đến để cứu chuộc nhân loại. Người con trai tên là Emmanuel này chính là sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa giữa dân Ngài, là lời tiên báo về Chúa Giêsu sẽ đến với con người trong trần gian.
Thiên Chúa ban tặng dấu chỉ này như một món quà tình thương. Vua Akhát, khi đối mặt với nguy khốn, thay vì lắng nghe lời ngôn sứ, đã không tin tưởng vào Thiên Chúa nhưng cậy dựa vào thế lực trần gian. Việc quy phục Assyria giúp miền Giuđa của vua tạm tránh được chiến tranh, nhưng thỏa hiệp này lại khiến dân Chúa xa rời giao ước. Chính vua Akhát “cướp của Nhà Chúa, của hoàng cung cũng như của các hoàng tử để nộp cho vua Asua, nhưng vẫn không được vua này tiếp viện. Cả trong thời bị tấn công, vua Akhát vẫn cứ lỗi phạm đến Chúa. Vua dâng lễ tế các thần ở Đamát…” (2 Sử Biên Niên 28: 23).
Nhiều lúc, chúng ta cũng do dự và nghi ngờ quyền năng Thiên Chúa, qua Chúa Kitô Giêsu, mà Thánh Phaolô loan báo: “Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Ngài đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1: 4). Đó là Tin Mừng mà thánh nhân rất hãnh diện được Thiên Chúa chọn để đi loan báo: “Tôi là Phaolô, tôi tớ của Chúa Kitô Giêsu; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa” (Rm 1: 1). Điều mà Thánh Phaolô loan báo chính là sự ứng nghiệm của những lời hứa về một Đấng Mêsia – Cứu Thế sẽ đến để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi: “Tin Mừng ấy, xưa Ngài đã dùng các ngôn sứ của Ngài mà hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Xét như một người phàm, Chúa Giêsu Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavít” (Rm 1: 2-3). Những lúc do dự và nghi ngờ ấy, cần nhớ rằng Emmanuel đã đến và Ngài vẫn luôn ở cùng chúng ta qua Giáo hội, qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói: “Thiên Chúa đã trở thành người; Ngài đến sống giữa chúng ta. Thiên Chúa không ở xa: Ngài là “Emmanuel”, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài không phải là người xa lạ: Ngài có một dung mạo, dung mạo của Chúa Giêsu…Ngài là người thật và là Thiên Chúa thật, Con Một đến từ Chúa Cha, đầy ân sủng và chân lý…Ngôi Lời, nguyên lý trật tự của vũ trụ, bắt đầu hiện hữu trong thế giới, trong thời gian và không gian xác định” (Thông Điệp Urbi et Orbi, Giáng Sinh 2010). Đức Giáo Hoàng nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa đến để cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Ngài mong muốn được chia sẻ lịch sử của chúng ta, khích lệ chúng ta trong lịch sử đó, bất chấp mọi mâu thuẫn của nó. “Đó là nguồn hy vọng cho tất cả những ai bị xúc phạm phẩm giá, bởi vì Đấng sinh ra ở Bêlem đã đến để giải phóng mọi người nam nữ khỏi nguồn gốc của mọi sự nô lệ” (dẫn trên).
- Thánh Giuse lặng thầm vâng theo ý Chúa
Chúng ta thường nghe câu chuyện Mẹ Maria nói với Chúa lời “Xin vâng”, hôm nay chúng ta thấy Thánh Giuse lặng thầm vâng theo ý Chúa, một cung cách sống mới mẻ sự công chính.
Thánh sử Mátthêu bắt đầu câu chuyện: “Sau đây là gốc tích Chúa Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Ngài, đã thành hôn với ông Giuse” (Mt 1:18). Khi ấy, Mẹ Maria có lẽ chỉ là một cô gái trẻ. Trong thời Thánh Giuse và Mẹ Maria, các cặp đôi thực hiện hôn ước khoảng một năm trước khi về sống chung; hôn ước này có giá trị pháp lý, khiến họ được coi là vợ chồng trước cộng đồng.
Thiên thần đến với Maria trong giai đoạn hôn ước này, trước lễ cưới công khai và cuộc sống chung. Thánh Mátthêu kể: “Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1:18). Chúng ta không biết Mẹ Maria có kể gì cho Thánh Giuse không, nhưng rõ ràng Mẹ đã thưa “Xin vâng” với Chúa mà không nói gì trước với Giuse. Thánh Mátthêu cho biết Mẹ Maria mang thai do Chúa Thánh Thần, nhưng không nói Thánh Giuse hiểu điều đó ra sao, vốn là một sự thật khó tin và vượt quá sức tưởng tượng của ngài.
Vậy nên khi kể rằng Giuse “không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1: 19), nghĩa là Giuse đang cảm thấy mình ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Maria, trên thực tế, đã vi phạm lề luật, và một người công chính như Giuse, vốn tuân giữ lề luật, thì không thể nào dính líu đến sự vi phạm đó. Giuse, người công chính, cảm thấy rằng mọi việc cần phải được giải quyết lặng lẽ êm thắm, có lẽ đó là cách tốt nhất không chỉ cho chính mình, nhưng nhất là cho Maria đang mang thai.
Nhưng khi Giuse đã quyết định xong rồi thì thiên thần của Chúa hiện ra trong giấc mơ và nói cho ông biết tình hình, đồng thời tiết lộ rằng ông có một vai trò cần phải thực hiện cùng với Maria. Thật vậy, sự tham gia của Giuse rất quan trọng không chỉ đối với Maria mà còn đối với Đấng Mêsia đang trong cung lòng Maria nữa.
Ở đây, sứ thần gọi đích danh Giuse: “Này ông Giuse, con cháu Đavít” (Mt 1:20). Trong Kinh Thánh, việc gọi tên không chỉ định danh mà còn mang ý nghĩa sâu sắc về căn tính, sứ mạng và mối tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, như xảy ra với Abraham, Israel hay Simon-Phêrô sau này, cho thấy người ấy được chọn để thực hiện sứ mạng cứu độ. Chính nhờ Thánh Giuse mà Chúa Giêsu được kết nối vào dòng dõi vua Đavít. Thánh Mátthêu thiết lập dòng dõi hợp pháp của Chúa Giêsu qua Thánh Giuse, để khẳng định Chúa Giêsu là con cháu Đavít và là con người thật: “Đây là gia phả Chúa Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít, con cháu tổ phụ Abraham” (Mt 1:1). Gia phả ghi: “Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Chúa Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1:16), chứ không nói “Giuse sinh Giêsu”. Vai trò hậu duệ Đavít được chuyển cho Chúa Giêsu qua tư cách phụ quyền, không qua huyết thống tự nhiên. Bằng việc đặt tên con trẻ là Giêsu theo lời sứ thần (Mt 1:21), Thánh Giuse thừa nhận trẻ Giêsu là con mình. Nhờ Thánh Giuse lắng nghe và vâng phục lời Chúa, Mẹ Maria cùng hài nhi Giêsu yếu đuối đã được nâng đỡ, chu cấp và bảo vệ.
Thiên thần bảo ông Giuse đừng “đừng ngại đón bà Maria vợ ông về” (Mt 1: 20). Thông điệp của Chúa dành cho ông Giuse là: đừng sợ làm điều Thiên Chúa yêu cầu, ngay cả khi điều đó có vẻ nghịch thường đối với người công chính. Giuse phải sẵn sàng hy sinh lòng tự trọng của mình, trong thầm lặng, để cuộc hôn nhân với Maria thành công, tránh những lời ong tiếng ve của những người không tin vào sự thật nhập thể của Chúa Giêsu. Thánh Giuse phải gạt bỏ con người mình sang một bên, ra khỏi vị trí trung tâm, để kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện trọn vẹn. Thật vậy, người ta không nghe thấy Thánh Giuse nói một lời nào, vì sách Tin Mừng chỉ viết: “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1: 24).
Bằng cách sẵn lòng chấp nhận con đường Chúa dẫn dắt, dù khác với thói thường của người đời, Thánh Giuse, cùng với Mẹ Maria, đã trở thành tấm gương về lòng tin vâng phục Thiên Chúa. Dù Thánh Giuse dường như chỉ hỗ trợ thầm lặng ở hậu trường, không phải nhân vật trung tâm, hầu như không ai biết được cảm xúc hay suy nghĩ cá nhân của ngài, nhưng sự cộng tác của ngài vào công việc của Chúa đã mang lại những điều vô cùng lớn lao cho thế giới.
Chúng ta cần suy nghĩ gì về vai trò của mình đối với những người mình chịu trách nhiệm, về những gì Thiên Chúa đã yêu cầu chúng ta làm cùng với họ và cho họ trong khi chờ đợi Chúa trở lại? Chúng ta bước vào chương trình Nước Trời, trong sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, bằng cách sống khiêm nhường, lặng lẽ cầu nguyện, suy gẫm và thực hiện Lời Chúa như Thánh Giuse.
Có một chi tiết được nói đến hai lần: “do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1: 18, 20), nhấn mạnh rằng Chúa Thánh Thần là nguồn cội của của Con trẻ Mẹ Maria sinh ra. Ngay cả việc báo trước Mẹ Maria sinh con cũng được diễn tả ngắn gọn qua lời ngôn sứ xưa kia: “Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai” (Mt 1: 23) như muốn tập trung vào ý nghĩa và giá trị linh thánh của sự kiện hơn là mô tả cụ thể chính sự kiện đó. Thánh Giuse có sứ mạng giúp người khác hiểu và đón nhận giá trị linh thánh của sứ điệp ấy.
Thánh Tôma Aquinô nhấn mạnh ý nghĩa và giá trị linh thánh này khi giảng giải rằng: “Không chút nghi ngờ nào, chúng ta phải khẳng định rằng Mẹ của Chúa Kitô là một trinh nữ ngay cả khi Chúa sinh ra: vì tiên tri không chỉ nói: “Này, một trinh nữ sẽ thụ thai”, mà còn nói thêm: “và sẽ sinh một con trai”. Điều này quả thật phù hợp… vì Mẹ đã sinh ra Ngôi Lời nhập thể, nên Thiên Chúa đã gìn giữ sự trinh khiết của Mẹ để tỏ bày Ngôi Lời của Ngài, và nhờ Ngôi Lời đó mà Thiên Chúa đã tỏ bày chính mình, và Ngôi Lời thực sự, là Thiên Chúa, khi hạ mình xuống thế gian, cũng không hủy hoại sự trinh khiết.” [1]
Cũng qua điều này, các giáo phụ khẳng định Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và người thật, sinh bởi Mẹ Maria. Thánh Clêmentê Alexandria nói: “Ngôi Lời này, Chúa Kitô, nguyên nhân của cả sự hiện hữu ban đầu của chúng ta, vì Ngài ở trong Thiên Chúa, và của sự bình an của chúng ta, chính Ngôi Lời này nay đã hiện ra với tư cách là con người, chỉ mình Ngài vừa là Thiên Chúa và con người, Đấng ban mọi ơn lành cho chúng ta; nhờ Ngài mà chúng ta được dạy dỗ để sống tốt, và được sai đi trên con đường đến sự sống đời đời” (Clement of Alexandria, Exhortation to the Heathen – Lời khuyên răn dành cho dân ngoại, 1.) [2]
Thánh Giuse lặng lẽ dạy chúng ta chờ mong Chúa đến bằng cách vâng theo ý Chúa thay vì ý riêng. Giữa xã hội hôm nay chú trọng vật chất, thờ ơ tôn giáo, sùng bái khoa học duy lý nhưng thất vọng trước vấn đề thế giới, thậm chí tuyên bố “Thiên Chúa đã chết” (Nietzsche), chúng ta được mời gọi tin rằng Thiên Chúa vẫn can thiệp qua “giấc mơ” lương tâm, bảo vệ sự thánh thiêng của con người và loan báo mầu nhiệm Emmanuel. Giáng Sinh là nền tảng sứ vụ ấy vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta là để chúng ta mang Ngài đến muôn dân. Lạy Chúa Giêsu Emmanuel, xin ở cùng chúng con luôn mãi.
Phêrô Phạm Văn Trung
[1] Điều 2, https://www.newadvent.org/summa/4028.htm
[2] https://www.str.org/w/nine-early-church-fathers-who-taught-jesus-is-god#fnref:17