TRANG CHUYÊN ĐỀ
mẹ maria trung tín thật thà
Loài người là con vật hợp quần. Như Pascal đã nói: “Con chim có đôi, con người có bạn”.
Ấy chính vì vậy mà khi dựng nên loài người, Thiên Chúa đã phán: “Con người ở một mình không tốt” (St 2,18). Thế là, Thiên Chúa đã dựng nên ông Adong, cho ông ngủ mê rồi rút xương sườn mà dựng nên bà Evà. Như thế, Thiên Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ. Từ đôi vợ chồng đầu tiên này mà hình thành nên xã hội loài người. Vì thế người ta có lý khi gọi con người là con vật hợp quần.
Xã hội loài người cũng ví thể như một cái nhà. Cái nhà đứng vững và bền lâu là do các phần nhà ấy tốt và liên kết với nhau.
Thế nhưng, xã hội do Adong và Evà đứng đầu bắt đầu tan vỡ, tan vỡ vì thiếu trung thành. Để sửa chữa lại sự tan vỡ đó, Thiên Chúa đã dùng những nhân vật khác. Người trao việc ấy cho gia đình Nadarét.
Evà trong gia đình nguyên tổ bất trung làm tan vỡ loài người như thế nào, thì Đức Maria trong gia đình Nadarét trung tín đã hàn gắn và xây lại xã hội loài người vững vàng chắc chắn như thế. Đó là ý tưởng của thánh Augustinô và thánh Bernađô.
Đức Mẹ trung tín với chương trình cải tổ Chúa đã định đoạt
Ngay khi tổ tông loài người sa ngã, Thiên Chúa đã ấn định chương trình cải tổ ấy khi nói với con rắn: “Ta sẽ đặt hiềm thù giữa mày và người Nữ cùng với dòng dõi cả hai bên. Người Nữ ấy sẽ đạp giập đầu mày, và mày rình cắn gót chân Người.” (St 3,15). Người Nữ ấy ám chỉ Đức Mẹ. Nhân vật được giao nhiệm vụ cải tổ là Con Thiên Chúa, nhưng Đức Mẹ là Mẹ của Người, vì thế, Mẹ đã trung thành cộng tác tích cực vào công trình ấy.
Đức Mẹ còn trung thành với Thiên Chúa trong việc thi hành cải tổ, và xây dựng loài người trên mọi khó khăn trở ngại
Trong suốt cuộc đời, Mẹ đã trải qua biết bao nhiêu khó khăn thử thách. Những gian nan thử thách đó được tiên báo trong lời của cụ già Simêon: “một lưỡi gươm sẽ đâm thấu lòng bà”. Lưỡi gươm ấy nói lên những đau khổ Mẹ phải chịu trong suốt cuộc đời nơi dương thế.
Giáo Hội thật khôn ngoan khi ban tặng cho Mẹ tước hiệu “Đức Nữ trung tín thật thà”.
Lạy Đức Nữ trung tín thật thà, xin giúp chúng con ăn ở trung thành với Chúa, với Mẹ và với Giáo Hội của Chúa bây giờ và mãi mãi.
(Lược trích theo Lm. Nguyễn Duy Tôn,
Những mắt xích vàng, Tủ Sách Ra Khơi, 1964).
Thánh Antôn Maria Claret
“Thánh Đa Minh” của Kinh Mân Côi
(1807-1870)
Đức Piô XI tuyên chân phước ngày 25/02/1934
Đức Giáo hoàng XII tuyên thánh: 07/05/1950
Lễ nhớ: 24/10
Thánh Antôn Maria Claret chào đời tại Sallent, Tây Ban Nha. Mặc dù sở hữu một ngoại hình nhỏ bé (1m6), thế nhưng, Claret lại là người khổng lồ trong đức tin. Ngay từ khi còn nhỏ, ngài đã khao khát trở nên tu sĩ của một dòng khổ tu. Nhưng vì sức khỏe yếu cộng với những hình thức khổ chế của đời sống ẩn tu, ngài đã từ bỏ ý định đó. Cảm thấy mình phù hợp với dòng Tên, ngài đã xin gia nhập sống thử linh đạo của Dòng. Nhưng không lâu sau đó, nhận ra ý Chúa, ngài đã xin ra khỏi Dòng và trở thành linh mục Triều. Cha Antôn Maria Claret rất nhiệt thành với sứ vụ linh mục của mình, thậm chí ngài dành một năm rưỡi giảng thuyết tại rất nhiều nhà tù trên đảo Canary. Với lòng nhiệt tâm loan báo Tin Mừng, ngài thiết lập Dòng Claret trước khi trở thành Giám Mục của giáo phận Santiago, Cuba.
Thánh Antôn Claret tiến hành một cuộc canh tân sâu rộng trong đời sống thánh hiến và Giáo Hội Công Giáo tại Cuba. Ngài rửa tội cho khoảng 300.000 người, chứng hôn cho 9.000 đôi hôn phối và thỉnh thoảng phải thuyết giáo đến hơn 12 bài giảng mỗi ngày. Người ta ước lượng trong suốt quãng đời linh mục, ngài giảng đến hơn 25.000 bài. Thánh nhân cũng soạn thảo hơn 100 tác phẩm thần học. Tuy nhiên, nhiều người không đồng thuận với những nỗ lực canh tân này, trong đó có những người theo hội Tam Điểm ở Cuba. Đôi lần, ngài bị nhóm người này mưu toan ám hại. Trong một cuộc ám sát, thánh nhân bị đâm vào mặt. Sau quãng thời gian ở Cuba, ngài nhận lãnh trách nhiệm giải tội cho hoàng hậu nước Tây Ban Nha và giúp chuẩn bị Công Đồng Vaticano I. Ngài là người biện hộ đầy nhiệt huyết cho Ơn bất khả ngộ của Giáo Hoàng và giúp hình thành định nghĩa về đặc ân này tại Công đồng. Vì sức khỏe suy giảm, ngài dành những ngày cuối đời tại tu viện Xitô ở Pháp.
Lòng Sùng Kính Đức Maria
Ngay từ khi còn trẻ, thánh nhân đã có lòng sùng mộ sâu sắc đối với Đức Trinh Nữ Maria. Ngài thực hiện nhiều cuộc viếng thăm các thánh đường cung hiến cho Đức Mẹ tại Fusimanya, và có thói quen đọc Kinh Mân Côi với chị gái Rosa. Trong cuốn tự truyện đầy cảm hứng, ngài tin rằng chính Đức Mẹ đã gìn giữ ngài khỏi chìm đắm vào những mê lầm, cũng như giúp ngài vượt qua cám dỗ liên quan đến đức khiết tịnh. Khi đến Italia năm 1839, lần đầu tiên ngài nhìn thấy dân chúng tỏ lòng sùng kính mãnh liệt với Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Điều này đã giúp thánh nhân hình thành lòng sùng mộ Đức Maria, mà sau này được biết là linh đạo Mẫu Tâm. Thánh Antôn Claret thực sự hiến mình cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Năm 1847, ngài thành lập Liên Hiệp Mẫu Tâm ở Vic, Tây Ban Nha. Hai năm sau, thánh Antôn Claret thiết lập một Hội dòng với mục đích tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Đó là Hội dòng Anh Em Thừa Sai Trái Tim Vô Nhiễm Đức Maria. Khi các thành viên tuyên khấn, họ phải thực hiện một lời hứa trang trọng là phổ biến lòng sùng kính đối với Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ.
Tương tự như thánh Anphongsô Ligôri, thánh Antôn cũng nhìn nhận Trái Tim Vô Nhiễm Đức Maria cũng là tàu Nôê mới. Nhờ kết hợp với Trái Tim Mẹ, nhân loại sẽ có thể tìm được không gian an toàn để vượt qua cơn hồng thủy tâm linh đang ập đến thế giới. Ngài cũng thấu hiểu Trái Tim Mẹ là “nơi náu ẩn của lòng thương xót”. Từ đây, mọi ân sủng của Ba Ngôi Thiên Chúa đổ tràn xuống trên mọi người. Thần học về Đức Maria của thánh Antôn bị ảnh hưởng rất lớn từ các tác phẩm của thánh Anphongsô Ligôri. Thỉnh thoảnh, ngài hướng dẫn mọi người đọc cuốn Vinh quang Đức Maria. Thánh Antôn cũng rất yêu thích cách trình bày về Đức Maria trong cuốn Thần đô huyền nhiệm của chân phước Maria Agreda. Về phần mình, ngài đã viết ít nhất 10 tác phẩm về Đức Trinh Nữ Maria. Khi trở thành Giám mục, ngài thêm danh hiệu “Maria’ vào tên của mình. Trước khi rời giáo phận ở Cuba, ngài hành hương đến 3 thánh đường cung hiến cho Đức Maria mà ngài sùng mộ nhất: Đức Mẹ Pilar, Đức Mẹ Montserrat và Đức Mẹ Fusimanya. Ngài đã sống trong thời kì chân phước Giáo hoàng Piô IX công bố tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội và biến cố Đức Mẹ hiện ra với thánh Bernadette tại Lộ Đức.
Chiến Sĩ Kinh Mân Côi
Khi Antôn còn rất trẻ, song thân đã tặng cho ngài chuỗi Mân Côi, ghi danh ngài vào Hội ái hữu Kinh Mân Côi và nêu gương tuyệt hảo qua việc gia đình đọc Kinh Mân Côi hằng ngày. Suốt thời thơ ấu, Antôn nghiền ngẫm cuốn sách về Kinh Mân Côi mà cha mẹ ngài đã mượn được. Sau khi đọc nó, ngài trở nên một chiến sĩ nhiệt thành của Kinh Mân Côi cho đến khi trưởng thành. Vì thế, Antôn tận hiến cho Kinh Mân Côi rằng ngài thường dẫn cả trẻ em và người lớn đọc Kinh Mân Côi trong xứ đạo. Ngay khi là chủng sinh, ngài gia nhập Hội Mân Côi Vĩnh Cửu và ghi danh vào Hội Mân Côi tại địa phương. Từ những ngày khởi đầu chương trình đào tạo, thầy Antôn đã tập thói quen đọc 3 chuỗi Kinh Mân Côi mỗi ngày và duy trì cho đến khi nghỉ hưu. Khi đã trở thành một linh mục, rất hiếm khi ngài bắt đầu bài giảng mà trước tiên không chỉ dẫn mọi người cách đọc Kinh Mân Côi. Thậm chí nhiều dịp, ngài cùng với những người đang hiện diện đọc toàn bộ các Mầu nhiệm của Kinh Mân Côi trước khi bắt đầu bài chia sẻ. Thánh Antôn được tấn phong giám mục vào ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi năm 1850. Đây là lời chứng của một thiếu niên đã có mặt trong một thánh lễ do thánh Antôn cử hành chỉ vài ngày trước khi ngài được tấn phong giám mục. Anh đã thấy một luồng sáng từ trời bao phủ lấy cha Antôn đang khi ngài dâng lễ kính Kinh Mân Côi. Cậu thiếu niên đã chứng kiến sự kiện này, về sau cũng trở thành linh mục và tiếp tục rao truyền cho người khác biết tất cả những gì đã xảy ra ngày hôm đó. Với vai trò là Tổng Giám mục của Santiago, Cuba, Đức cha Antôn đã trao tặng hơn 20,000 chuỗi Mân Côi và yêu cầu tất cả các nhà thờ thuộc giáo phận phải đọc Kinh Mân Côi vào các ngày Chúa nhật và các ngày lễ kính. Để chắc chắn thói quen này được thực hiện, ngài thỉnh thoảng thăm viếng bất chợt đến các giáo xứ. Ngài sáng tác một vài tác phẩm, dịch sách về Kinh Mân Côi do một linh mục khác viết. Trong tác phẩm dành riêng các chủng sinh, ngài nhấn mạnh mỗi chủng sinh phải đọc Kinh Mân Côi mỗi ngày. Mặc dù, không hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi các tác phẩm của thánh Louis de Montfort cũng như đã qua đời 7 năm trước khi Đức Giáo hoàng Lêô bắt đầu viết các thông điệp về Kinh Mân Côi, nhưng lối giải thích về nguồn gốc Kinh Mân Côi của thánh Antôn lại hoàn toàn dựa theo cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi và 11 thông điệp của Đức Lêô XIII. Ý Chúa quan phòng, vào năm 1899, một năm sau khi Đức Lêô XIII soạn thảo thông điệp cuối cùng về Kinh Mân Côi, ngài đã tuyên bố thánh Antôn Maria Claret là Đấng đáng kính.
Vì nhiệt tâm quảng bá Kinh Mân Côi, nên thánh Antôn thường được ví là “thánh Đa Minh” của thế kỉ thứ 19. Cùng là người Tây Ban Nha, ngài thực sự yêu mến thánh Đa Minh, bắt chước ngài về phong cách giảng thuyết và luôn mang theo chuỗi Mân Côi bên mình. Hơn thế nữa, trong nhiều dịp, Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra với Antôn và nói rằng ngài sẽ được dùng như “thánh Đa Minh” cho những người thuộc thời đại của ngài” bằng việc nhiệt thành quảng bá Kinh Mân Côi.
Trích từ Donald H. Calloway, MIC,
Champions of the Rosary, Marian Press, 2016
Chuỗi Ngọc Mân Côi
Nếu bạn mong muốn sự an bình trong lòng, trong gia đình, và trong đất nước, hãy tụ họp lại đọc Kinh Mân Côi mỗi buổi tối.
Đức Chân phước Giáo hoàng Piô IX
Duy chỉ có Kinh Mân Côi là kho tàng quý giá bậc nhất ở Vatican.
Đức Chân phước Giáo hoàng Piô IX
Lạy Thiên Chúa của con, Ngài đã không xét đến quá khứ của con, Ngài không dừng lại trước yếu đuối của con; Ngài đã đặt Chuỗi Mân Côi vào một tay con và một cây bút vào tay còn lại của con, và Ngài nói với con: “Con hãy viết đi, người ta sẽ nghe con, bởi vì chính Ta sẽ đặt vào trái tim con lời sự sống”.
Chân phước Bartolo Longo
Lạy Mẹ Thiên Chúa, Trinh Nữ rất quyền năng, nhiều lần trong quá khứ Mẹ đã cộng tác trong đức ái, nhờ thế mà các tín hữu mới được sinh ra trong Giáo Hội, bây giờ Mẹ là trung gian, là Đấng đồng công cứu chuộc của chúng con. Xin Mẹ đạp giập những cái đầu của loài rắn độc xấu xa tội lỗi.
Đức giáo hoàng Lêô XIII
Mẹ ơi, xin hãy làm cho chiến thắng thuộc về Mẹ. Mẹ sẽ chiến thắng. Vâng, Mẹ có quyền năng chiến thắng mọi lạc giáo, sai lầm và tội ác. Và con tin tưởng vào sự bảo trợ đầy quyền năng của Mẹ, sẽ dấn thân vào cuộc chiến, không chỉ chống lại tính xác thịt, mà còn chống lại thế lực đen tối, như thánh Tông đồ (Phaolô) nói, cầm lấy khiên mộc che chở là Chuỗi Mân Côi rất thánh và trang bị vũ khí bằng thanh gươm hai lưỡi sắc bén là Lời Chúa.
Thánh Anthony Mary Claret
GIA ĐÌNH VÀ SỨ VỤ THƯƠNG XÓT
- Chúa Giêsu một đàng đưa ra lý tưởng rất cao về đời sống hôn nhân và đàng khác, Người lại bày tỏ sự cảm thông và gần gũi trước những yếu đuối của con người như trường hợp người phụ nữ xứ Samaria hoặc người nữ phạm tội ngoại tình. Theo gương Chúa Giêsu, các gia đình Công giáo được kêu gọi chăm sóc mục vụ cho các gia đình khác: “Nhờ ân sủng của bí tích Hôn nhân, các gia đình Kitô hữu là chủ thể chính của mục vụ gia đình, nhất là khi họ cống hiến chứng tá đầy vui tươi của đôi vợ chồng và gia đình, Hội Thánh tại gia” (Niềm vui của tình yêu, 200). Với trách nhiệm chủ chăn, chúng tôi xin gửi đến anh chị em những đề nghị sau đây:
Đồng hành với những gia đình di dân: Ngày nay, vì hoàn cảnh kinh tế, rất nhiều gia đình phải rời bỏ làng quê để tìm kế sinh nhai trong những thành phố lớn. Chỉ có một số ít thành công, còn phần lớn gặp nhiều khó khăn trong việc làm ăn, sinh hoạt gia đình, giáo dục con cái. Về mặt đức tin, nhiều khi họ cũng gặp khó khăn trong việc hội nhập cộng đoàn giáo xứ mới. Vì thế, chúng ta phải mở rộng vòng tay đón tiếp, để các gia đình di dân cảm nhận cộng đoàn giáo xứ là nhà của họ, nơi đó đức tin được nuôi dưỡng, lòng mến được vun trồng, và tin tưởng bước tới tương lai ngay giữa những khó khăn thử thách.
Đồng hành với những cặp hôn nhân khác đạo: Tại Việt Nam, tỷ lệ người Công giáo chỉ là 7%, hơn nữa các bạn trẻ ngày nay không còn sống trong những ngôi làng hoặc khu vực tập trung người Công giáo, nhưng sống và làm việc trong những môi trường chỉ có rất ít người Công giáo, do đó việc kết hôn giữa người Công giáo và người ngoài Công giáo sẽ gia tăng. Trong những gia đình này, có những khó khăn riêng do việc không cùng niềm tin tôn giáo, ảnh hưởng đến việc giữ đạo của người Công giáo cũng như việc giáo dục con cái trong gia đình. Vì thế, chúng ta cần đồng hành với những gia đình này, để nâng đỡ người (vợ hoặc chồng) Công giáo trong đời sống đức tin, hơn thế nữa, để họ có thể làm chứng cho Tin Mừng và giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người trong gia đình.
Đồng hành với những gia đình bị đổ vỡ: Hội Thánh luôn mong muốn các đôi vợ chồng sống chung với nhau đến trọn đời. Ly thân và ly dị chỉ được xem như lối thoát cuối cùng, sau khi mọi nỗ lực hoà giải đã thất bại. Tuy nhiên nhiều người rơi vào tình trạng này vì hoàn cảnh bất đắc dĩ chứ không hoàn toàn do lỗi riêng của họ. Vì thế chúng ta cần cảm thông và đồng hành hơn là loại trừ họ, cách riêng trong việc nuôi dạy con cái, vì trẻ thơ chính là thành phần chịu thiệt thòi nhiều nhất do những cuộc ly thân và ly dị: “Chăm sóc cho những người như thế không làm cho đức tin của cộng đoàn và việc làm chứng cho sự bất khả phân ly của hôn nhân bị suy yếu đi, trái lại, chính trong sự chăm sóc này mà cộng đoàn thể hiện đức ái của mình” (Niềm vui của tình yêu, 243).
- Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Giáo hoàng Phanxicô dạy: “Thương xót không phải là một từ trừu tượng nhưng là một lối sống. Nói về lòng thương xót là một chuyện, còn sống lòng thương xót lại là chuyện khác. Dựa vào lời Thánh Giacôbê Tông đồ, chúng ta có thể nói: thương xót mà không có việc làm thì coi như đã chết”. Trong truyền thống lâu đời của Hội Thánh,những công việc của lòng thương xótgồm những việc về phần xác và về phần hồn. Những việc về phần xác là: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ làm tôi, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, chôn xác kẻ chết. Những việc về phần hồn là: lấy lời lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
Anh chị em hãy làm gương cũng như tập cho con cái làm những việc của lòng thương xót. Chính những công việc đó sẽ huấn luyện con cái chúng ta trở nên những con người có lòng thương xót, biến đổi gia đình chúng ta thành ngôi nhà của lòng thương xót, góp phần làm chứng và giới thiệu dung nhan Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam,
Tâm thư gửi các gia đình Công giáo, số 11-12