Mình vừa mới tham dự Thánh lễ truyền chức linh mục của Phêro Đòan đức Thăng, cháu gọi bằng cậu tại nhà thờ chánh tòa Xuân Lộc. Ngồi dưới nhìn lên cung Thánh, nhác thấy có đức ông Đinh đức Đạo, có cha Đinh nam Hưng quản hạt Phú Thịnh. Cả hai vị này là lớp trên lớp dưới, còn mình thì lại thuộc cả hai lý do chỉ tại …học dốt nên phải xuống lớp. Tâm trạng khi ấy thật khó diễn tả, vừa nô nức trong một tòan cảnh rực rỡ cờ hoa nhạc trống rộn ràng lại vừa dâng lên trong lòng một niềm tri ân lặng lẽ = vô cùng cảm tạ ơn Chúa đã cho trở lại. Cách đây đã trên năm chục năm, chính xác là năm 1956 mình đã được cha bố Phêro Dư tác Thiện nay đã ngoài chín mươi , hiện đang ngỉ tại nhà hưu Chí Hòa lo liệu cho nhập chủng viện di cư Bùi Chu Phanxicô. Nói là nhập nhưng vẫn phải qua một buổi thi, còn nhớ là trên sáu mươi chú ngồi thi tại một phòng học trên lầu ba trường Nguyễn bá Tòng vừa xây mới toanh mà sau này đã trở thành lớp B six …lừng danh. Đề thi lần đó còn nhớ mài mại = Hãy nói lý do tại sao lại đi tu ?. Chẳng biết đề bài có đúng tróc như vậy hay không và mình đã luận giải như thế nào nhưng quả thật mãi về sau, từ trong tâm tưởng mình vẫn khắc khỏai với câu hỏi về mục đích sống ở đời. Xuất tu, vỏn vẹn chỉ sau có ba năm, một năm Huyện Sĩ, hai năm Phước Tỉnh. Ra đời cố nhiên là vẫn tiếp tục đi học và vẫn cứ …dốt như thường. Dẫu vậy duy có một môn là mình không dốt, đó là luận văn, ngay từ năm đệ tứ học tại trường Hưng Đạo, đường Cống Quỳnh của cha Trần đức Huynh làm hiệu trưởng mình đã mày mò dịch thơ tiếng Pháp. Học các môn tóan lý hóa thì không thể ..vô nhưng cái món văn thì rất mê. Ở bất cứ lớp nào mình cũng hạng nhất, được thầy khen, có khi còn đọc cho cả lớp nghe.
Điều khiến cho có sự ..mê văn như thế, giờ đây mình nhận ra rằng đó chính là do bởi nỗi khát khao tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống nó thôi thúc mình đọc. Ngay từ thuở thanh niên mình đã đọc đủ thứ và tòan là những thứ khó…nuốt như Hố Thẳm Tư Tưởng của Phạm công Thiện, thơ Nguyên Sa, Thanh tâm Tuyền v.v. triết luận của Hồ hữu Tường, Nguyễn văn Trung , Nguyễn mạnh Côn… Đọc nhiều nhưng không tiêu hóa nổi và xét cho cùng chúng cũng chẳng có gì để mà tiêu, để mà hóa,.tuy nhiên nó cũng khiến cho mình trở nên một anh chàng khờ khờ, chân không dính đất, cật chẳng đến trời. Giữa năm đệ nhị trên đường đi học về bị trúng mưa cảm lạnh sau vài ngày thì ho ra máu, nám phổi phải nghỉ học, ở nhà chữa bệnh, hàng tuần đều đặn ghé trạm y tế bên hông nhà thờ Nam Hòa chích trep đến ù cả tai. Hết bệnh đi làm công chức..phù động gần một năm tại Nha Công Binh ( liên kho C- Gò Vấp ), rồi bị động viên lớp HSQ TB khóa mười 1962, hết ba tháng quân trường Quang Trung ra Vũng Tàu học tiếp ba tháng chuyên môn, tốt nghiệp được gắn cánh gà trắng trên vai.
Bị thuyên chuyển ra mãi tận Pleiku BTL QĐ II rồi xuống BMT sư đòan 23 một năm Quảng Đức ba năm. Trong thời gian mấy năm ở Quảng Đức ( Gia nghĩa ) suốt ngày dong chơi ngày thì thơ thẩn bên suối, đêm thì lai rai quán xá, làm thơ viết lách công quả cho tờ BNS Tinh Thần của Nha TUCG, cha Đinh cao Thuấn chủ nhiệm, cha Trần học Hiệu chủ bút, Lý minh Tuấn chủ biên. Chắc là cũng có ..duyên nợ gì đó với Tuấn thế nên mãi sau 1975 cả hai lại về sinh sống tại Hố Nai, gặp gỡ nhau thường xuyên. Đó là câu chuyện về sau, bây giờ trở lại với thời sự nhiễu nhương ngày đó , sau năm năm quân dịch, giải ngũ vừa đúng một tháng lại bị tái ngũ vì biến cố tết Mậu Thân 1968. Cầm SVL về SĐ 5 Phú Lợi gần một năm, ngày làm tạp dịch, tối dẫn tiểu đội đi kích. Cuộc sống như chơi vơi giữa sống và chết. Thật tình khi ấy cũng chẳng lo gì chuyện chết sống, cả làng cả nước đều vậy. Rút cục chẳng chết, được ưu tiên đổi về BTTM , mấy tháng sau lấy vợ, đậu nốt tú tài phần hai, thi vào lớp HSQ tùy viên quân sự biệt phái sang BNG làm việc tại TĐS VNCH tại Phnom Penh cho đến ngày LonNol sụp đổ.
Chính trong cái khỏang thời gian gần bốn năm với công việc nhàn tản này mà mình luôn ở trong cái ranh giới mong manh giữa sa đọa và ý thức muốn vươn mình lên . Trà đình tửu quán hết ngày này ngày khác, chán quá thì lại mò đến các chùa, mà chùa chiền ở đấy thì nhiều vô kể, nhiều chùa, nhiều mùi hương đến ngạt thở. Có những buổi chiều tà, một mình ngồi trên ghế đá lơ đễnh dõi mắt theo những con thuyền ngòai xa trên khúc sông Tonglesap mênh mông trước công viên đền vua, lòng lặng đi với nỗi buồn vô cớ, chốc chốc lại giật mình bởi vài tiếng rao lanh lảnh mời mua mía ghim của những đứa trẻ cởi trần da đen xám, đầu đội một cái thúng nhỏ càng làm cho lòng thêm chĩu nặng. Học tiếng Pháp với ông bạn già, nhân viên địa phương của phòng Kiều Vụ, rồi lân la tìm hiểu Thiền, yoga. Ông ta tu theo thiền Minh Sát của Thái đã lâu, tuy sống lặng lẽ , độc thân trên một căn phòng trên lầu ba nhưng ở con người ấy mình thấy tóat ra một sức sống điềm đạm và rất dễ gần..
Dòng đời cứ trôi, mình vẫn như cánh lục bình dập dờn trên sóng nước , hay cũng có thể nói như thi sĩ Vũ hòang Chương:
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về.
Sống chẳng biết tại sao sống, chết cũng chẳng hiểu về đâu. Giờ đây khi phần nào đã..ngộ ra được cái lẽ sống chết ấy, mình mới thấy sợ cho cái đêm lễ Phục sinh 1972. Cùng mấy người bạn chơi đi ngang qua nhà thờ chính tòa ( Nay đã bị bọn Khmer đỏ đặt mìn đánh sập ) có một tên đòi xuống để đi lễ và có ý rủ nhưng mình từ chối . Đến nhà hàng Paradis ( Thiên Đường ) vừa ngồi uống hết một tuần rượu xem người ta ôm nhau nhảy thì bỗng một lọat súng chát chúa vang lên , đèn đóm tắt phụt tối thui, bàn ghế xô đẩy rầm rầm tiếng người la hét hỏang lọan. Lồm cồm bò ra được ngòai đường cả bọn hú vía , lên xe về nhà bàn tán râm ran, riêng mình rùng mình , chút nữa thì Thiên Đường đâu chẳng thấy Hỏa ngục thì ..cầm chắc….!!!! Hỏi han tin tức , phòng trực phái bộ cho biết có mấy ông tướng sĩ quan trẻ nhà mình tác quái giật le với gái lấy súng bắn nát bộ đèn chùm , may mà không có ai việc gì.
Cái chết luôn gây một ấn tượng sâu đậm nơi mình nhất là những cái chết bất ngờ. Có lần kia đèo thằng con trai út mười tuổi vào thăm chùa sư Liêm ở Trảng Bom . Trên đường về, vừa đến ấp Quảng Biên thì gặp một tai nạn kinh hòang diễn ra ngay trước mắt. Một thằng bé cởi trần trùng trục từ trong ngõ phóng vụt mạng qua đường, đằng sau là bà mẹ tay cầm cây roi miệng la hét bải hỏai. Bỗng một chiếc xe tải lao tới cán nghiến , thằng bé nát vụn giống như người ta cầm chiếc búa tạ giáng xuống một chiếc bánh kem rồi cứ thế mà miết đi. Vết thắng lết của các bánh xe để lại trên đường một màu hồng nhờ nhờ của thịt xương và máu. Cát bụi lại trở về với cát bụi, một thóang nữa đây các bánh xe một cách rất vô tình sẽ chà đi xát lại cái vết máu ấy, xóa nhòa đi trong cát bụi. Dẫu vậy con người lại không chỉ là cát là bụi, nó còn là một cái gì đó, cái đó là cái gì ? Câu hỏi này luôn dằn vặt và thực tình mình cũng chẳng muốn lẩn tránh nó….
Sau 30 tháng 4/75 bị đuổi khéo nhưng cương quyết ra khỏi trại gia binh truyền tin BTTM, mình đem vợ con về khu vực Hố Nai, mua năm sào rẫy trồng mì sinh sống.. Ban ngày hai vợ chồng dậy sớm từ mờ sáng lo giặt dũ cơm nước , mình đi bộ ra rẫy cách nhà chưa tới một cây số vai vác cuốc trên đó tòong teng bình nước bốn lít cùng với chiếc điếu cày. Còn bà vợ gầy gò trước làm bí thư cho trưởng phòng nhân viên quân sự Mỹ trong phi trường TSN lo cho ba đứa con , đứa lớn nhất vừa lên sáu ăn uống rồi đạp xe đạp ra sau. Cuộc sống chẳng những vất vả dầm mưa dãi nắng mà còn..lo đói, rất chi là khổ. Chẳng có tiền thuê mướn, hai vợ chồng cứ làm cỏ sạch được đằng đầu thì đàng cuối cỏ tranh đã phất phơ tới ngang đầu gối.. Chỉ có rẫy thôi thì chẳng làm sao mà có đồng tiền chi cho mắm muối cá khô rau cỏ, bèn theo người ta vào rừng lấy lá buông , vắt muỗi mặc sức mà hút, mà chích. Nhớ lời cụ Lão nói có thân là có khổ, không thân thì muỗi vắt lấy chi mà hút, chich ? Ai mà chẳng có thân, bởi vậy ai mà chẳng khổ, nghèo có cái khổ của nghèo, giàu cũng vẫn khổ vậy thôi, tuy nhiên ai thì cũng cho mình là khổ nhất trần đời…! Bà vợ vốn dĩ thể tạng yếu ớt lại còn bị chứng thần kinh tọa. Một tuần hai lần phải đèo xe đạp chở bà ấy vào cây số sáu đường Cây Gáo để châm cứu. Chính là trong thời gian này mà mình mang duyên nợ với Thiền.
Đã quen với ông thầy châm cứu mang một cái danh xưng rất kêu = Châm y sư Lưu Được từ lâu. Là trung úy ngành truyền tin cùng một đơn vị với mình = tiểu đòan TT/BTTM. Anh vốn là người CG..một nửa, bố PG mẹ CG, học trường dòng, rửa tội nhưng lớn lên không lễ lạy nhà thờ nhà Thánh gì cả…! Trước khi bị động viên khóa 19 TĐ đã có học châm cứu và sau khi ra trường về BTTM, anh được phép ở luôn trong Niệm Phât Đường/BTTM ăn chay trường, chuyên việc châm cứu…. Phải công nhận tướng mạo của vị châm y sư này khá kỳ vĩ, mặt mũi phương phi, tay dài quá gối, lúc nào cũng mặc bộ quần áo lụa màu mỡ gà trông ra dáng một .. ông Phật sống. Quanh vùng người ta đồn thổi về anh râm ran, có người còn tặng một bức hòanh phi vĩ đại khảm ba đại tự vàng = Đức Lưu Phương . Thầy chỉ chữa bệnh một tuần ba buổi sáng, tòan bộ thời gian còn lại dành để ngồi Thiền. Qua một đệ tử thân tín nhất (, anh này thì đúng là một thầy dòng xuất ) được anh cho biết thầy mình tu theo pháp môn Thiền vô vi củ a đại minh sư Lương sĩ Hằng., chủ trương xuất hồn lên các cõi trời để học đạo mầu.
Cũng trong khỏang thời gian này , mình còn làm quen với nhóm …tu tiên của Sáu Quán và Tư Hon chuyên nghiên cứu về Dịch và …nhịn đói uống nước lã. Có lần cùng với Lý minh Tuấn đến gặp Tư Hon, anh ta chính cống người Tàu trạc khỏang trên dưới năm mươi làm nghề sạc bình điện. Nghe anh diễn giảng và bàn về triết lý của sự nhịn đói, trước khi kiếu từ ra về chúng tôi còn nghe anh nói với theo = tu là không chết , tu mà chết thì còn ra gì…Rất phấn khởi cách hai tuần sau hai chúng tôi lại đến để được nghe lẽ phải làm cách sao để đạt trường sinh bất tử, lần gặp này có lẽ đã bước vào …tâm giao, Lý minh Tuấn ngỏ lời mời ra quán lộ thiên bên bên đường …chén thịt chó , anh vẻ như hơi ngần ngừ nhưng chép miệng = tu là không có chấp , tu mà còn chấp thì chưa cao…! Và rồi chỉ khỏang một năm sau nghe tin anh chết vì chứng sơ gan cổ chuớng, do bị nhiễm độc chì, đúng là sinh nghề tử nghiêp ….
Tháng ngày vẫn trôi qua với những vất vả lo toan đời thường . Làm rẫy trồng mì quá vất vả mà chẳng thể sống, bà vợ ra ngồi chợ bán bánh mì và mấy năm sau thì mua được lô đất làm nhà trên chợ mới Trà Cổ. Ở lại một mình trên mảnh vườn tại dốc Suối Đỉa mùa nắng trồng hoa, mùa mưa bán cá giống sống lai rai. Trong khỏang thời gian này mình càng tích cực gặp gỡ với châm y sư Lưu Được và thông qua một nữ đệ tử ( chị Huệ ) mình đi vào thực hành Thiền vô vi. Vừa thiền vừa ăn gạo lức muối mè, nhịn đói uống nước lã có khi ròng rã cả mấy tháng trời. Cho đến một ngày kia lúc nửa đêm (Thời công phu của thứ thiền này luôn vào giờ Tý) sau chín ngày nhịn đói đang khi quạt pháp luân thì bị sổ mũi nước liên tục như súng bắn liên thanh. Tuy rất khó chịu nhưng vẫn kiên trì cho tới khi không thể chịu nổi ngồi phịch xuống giường, đầu nhức buốt như có hàng trăm mũi kim châm xiên vào. Không gian bên ngòai hòan tòan yên tĩnh nhưng tâm trí thì lại bất an gần như hỏang lọan. Suốt cả mấy tiếng đồng hồ trong đêm trường mù mịt ấy, không một điểm tựa, không một chỗ bám víu mình thật giống như kẻ bị lạc trong rừng, quanh quất không một lối ra.
Còn nhớ đó là vào khỏang tháng mười, những cơn mưa thường gần về sáng. Nhìn ra ngòai khung cửa sổ, trời đã mờ mờ, cảnh vật tuy còn nhạt nhòa nhưng cũng khiến có phần an tâm = đêm sắp qua , ngày đang tới và nữa, tiếng mưa rào rạt trên mái lá khi ấy cho mình có một cái cảm giác rất lạ như được chở che vỗ về….Chợt nhớ đến một câu đã đọc được ở đâu đó, thà thắp lên một ngọn đèn còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối. Mình mò bao diêm đốt lên ngọn đèn và lê bước tới bên tủ sách với ý tưởng rằng , nếu giở bất kỳ trang nào mà đọc được thì tốt có cơ còn cứu vãn… Chẳng biết động lực nào đã khiến lôi ra được cuốn KT tòan bộ dày cộp của Tin Lành. Cuốn này mình đã nhặt được tại đống rác đang cháy dở bên ngòai bờ tường BTTM trong trại gia binh Truyền Tin đúng buổi sáng ngày 30/4/1975. Giữa một đống nào là quân phục, giày bốt đờ sô, quân phục lon ngù băng nhạc…cuốn KT tội nghiệp sắp bị ngọn lửa liếm tới. Cầm cuốn sách về nhưng chẳng hề giở chi tới cho tới tận lúc này. Rất ngẫu nhiên giở ra và đọc thấy một câu trong Tân Ước “ Lạy Cha, con cảm tạ Cha vì Cha đã giấu những điều này cho kẻ khôn ngoan thông sáng nhưng lại mở ra cho con trẻ. Phải Cha ơi như vậy là đẹp lòng Cha ..” (Lc 10, 21.)
Như bừng tỉnh, vậy hóa ra từ trước tới giờ mình đã hòai công kiếm tìm chân lý. Sự thật tối hậu chỉ có thể có được với việc bỏ mình, bao lâu còn thấy có mình thì chân lý không bao giờ tỏ lộ, nó giống như mặt trời bị mây đen che khuất. Nhịn đói, tầm nghiên sách nọ vở nọ kia mà không bỏ được mình thì chỉ khiến cho Sự Thật ở nơi mình ngày càng bị lấp vùi chẳng ích lợi chi cả. Bỏ mình, theo Chúa đó là cái quyết định tức thời khi ấy cùng với một động tác thiết thực là quỳ ngay xuống với lòng ăn năn thống hối thật sự, tuy không có nước mắt rơi nhưng đây quả thật là sự trở về chớp nhóang…Mặc dầu đầu vẫn còn buốt, những cơn giật thót người liên tục khiến người run rẩy nhưng tâm hồn đầy sự phấn khích . Nhóm bếp bỏ nắm gạo vào nồi nấu cháo lấy nước húp. Rất nhanh mình có quyết định chờ trời sáng rõ sẽ lên trình cha xứ xin xưng tội. Cha cố Nghi chánh xứ Tân Bình là…bạn nối khố của cha Thiện bố mình. Trước khi về đây mình đã cẩn thận xin thư giới thiệu của bố. Húp hết tô nước cháo , mình khóac áo mưa ( trời đang mưa bão ) lên gõ cửa phòng. Cố Nghi hỏi ai đó- Dạ con Hóa đây- Có việc gì mà tới sớm vậy ông Hóa, cha mở cửa mời vào, mình ngỏ ý muốn xưng tội, cha tròn mắt ngạc nhiên tưởng mình bị…ấm đầu. Nhìn thái độ nghiêm túc khẩn trương của mình, cha chỉ cái ghế salon trước mặt bảo xưng đi. Mình không ngồi mà quỳ ngay xuống trước mặt cha xưng thú vắn tắt tội lỗi đã bỏ Chúa ngần ấy năm trời với bao nhiêu là thứ tội độc dữ. Giống như người con hoang đàng trở về mình cũng thú với Chúa, con đã lỗi phạm với trời và với Cha, không đáng làm Con Cha nữa…
Kể từ đây cuộc đời thật sự đã sang trang mới và trong suốt hơn hai mươi năm qua, không khi nào mình có sự nghi ngờ về tính chất chân thật của sự trở về ấy. Tất cả là hồng ân, ngay cả những ngày còn lang bạt trên những nẻo đường tăm tối, Đấng Cha nhân lành có khi nào dù chỉ trong phút giây rời mắt khỏi đứa con tội nghiệp của mình. Không một ai mà Chúa lại không đóai nhìn thế nhưng có được sự trở về vô giá ấy lại là chuyện khác . Với mình thì đây là bàn tay của Mẹ Maria. Mẹ đã từng bước, từng bước như Bà Rebecca sửa sọạn cho Giacop được lãnh nhận sự chúc phúc của cha già Isaac. Cảm nhận tức thì được ân ban của Mẹ, thế nên sau khi xưng tội về, lòng sạch boong mình hứa với Mẹ là sẽ lần chuỗi Mân Côi trả ơn Mẹ cho tới khi về Trời . Thế nhưng có trở ngại nhỏ là …không thuộc một ngắm nào cả, phải sang nhà ông trùm Nam, một bạn già hàng xóm mượn cuốn sách kinh về lẩm nhẩm học mấy ngày mới thuộc..
Sự sắp đặt của Mẹ tưởng như ngẫu nhiên nhưng thật diệu kỳ, mình gặp lại đại úy Lợi trước cùng ở trại gia binh truyền tin, anh là TTV lâu năm của Senatus Sàigòn. Sau buổi hàn huyên tâm sự, anh đưa cho cuốn Thủ Bản Legio bảo cầm về mà đọc, hay lắm. Về nhà lật ngay vài trang , thế rồi gặp được một câu và cho đến nay sau hơn 20 năm hoạt động tích cực mình cho đây chính là một thứ kim chỉ nam tuyệt vời “ Theo ý Legio sự trọn lành của HV không dựa vào chỗ tự mãn vì những kết quả thực sự hay bề ngòai nhưng chỉ căn cứ vào lòng trung thành từng nét với phương pháp Legio. Hội viên chỉ xứng đáng với danh xưng khi họ biết tuân phục quy chế (TB chg 11 câu 142 ). Con đường nên Thánh, đường trọn lành không ngờ lại hóa ra vô cùng giản đơn như thế . Chỉ cần trung thành từng nét với phương pháp Legio là được, thế nhưng nếu không có Mẹ dẫn dắt thì không một ai có thể nhận ra và đi theo con đường đó được. Càng họat động Legio trung thành với phương pháp bao nhiêu th́ người ta càng thấy sự chắc thật của nó bấy nhiêu vừa dễ lại vừa chắc chắn bỏ được mình. Được ơn trở lại mình vẫn tiếp tục nghiên cứu Thiền với những tác phẩm quan trọng của đại sư Ấn Quang, Tuyên Hóa, Quảng Khâm, Thích Thiền Tâm v.v..Mình say mê tìm hiểu Tịnh Độ Chân Tông và thấy rằng nó hết sức ám hợp với Đạo Công Giáo nhất là pháp môn Trì Danh Niệm Phật với Kinh Mân Côi. Hàng năm ít nhất hai lần, mỗi lần một tuần mình nhập thất tại Chùa của sư Giác Liêm để chuyên lần hạt, ngòai ra mình sống đich thực là một Kitô hữu thuần thành, dự Thánh lễ hàng ngày, tham gia việc tông đồ với tất cả lòng tin, tôn sùng Thánh Thể, Đức Mẹ ngày càng tăng trưởng.
Con đường phía trước còn dài, chắc hẳn cũng chẳng ít chông gai nhưng mình vững tâm vì có Mẹ. Lẽ nào Mẹ lại nỡ lòng bỏ rơi đứa con mà Mẹ đã chăm bẵm từ thuở còn chưa lọt lòng ? Càng cậy trông nơi Mẹ mình càng quý trọng biết bao cái ơn trở lại này. Ước chi con không sa ngã để buồn lòng cho Mẹ nhưng nếu có trót ngã sa xin Mẹ đỡ nâng con ngay. Lạy Mẹ con yêu mến Mẹ biết chừng nào.
Phùng văn Hóa