Cuộc Khởi Hoàn Vinh Hiển

VỊ TIÊN TRI CỠI LỪA, TOÀN DÂN TUNG HÔ DẬY ĐẤT,

NHỮNG LỜI TUYÊN BỐ LẠ, Ý NGHĨA SÂU XA…

Thanh danh Chúa Giêsu đã vang dậy khắp xứ Palestine, từ miền Pêrêa đến bờ Địa Trung Hải, và từ giải rừng sâu rộng Giuđêa đến núi Hécmon. Thanh danh Ngài được ăn sâu vào lòng dân nữa. Ai nấy đều mong được gặp Ngài để tặng những cái nhìn ngưỡng mộ hay những lời thân ái.

Hôm ấy ngày lễ nghĩ, một tin mừng sớm được tung ra; Ngài đã đến Betania, nơi cách Jêrusalem vài cây số. Một số đông liền kéo đến Betania để gặp Ngài và mục kích ông Lagiarô, người đã được Ngài cho phục sinh hôm trước. Lần này đến Betania, Ngài có ý định lên Jêrusalem để thực hiện lời tiên Giacaria đã nói năm thế kỷ trước. Lời tiên tri rằng: Chúa Cứu Thế sẽ khải hoàn vào Jêrusalem (Zac. 9: 9) Bởi vậy sáng sớm hôm sau, Ngài cùng môn đệ bỏ Betania, tiến vào thành.

Ngài đã tới núi Cây Dầu, gần một thôn, tục gọi là Bétphagiê (thôn cây vả) Ở đó Ngài sai hai môn đệ đi mượn Lừa cho Ngài. Ngài dạy:

-Các con hãy vào làng ở phía trước đây. Tới đó các con sẽ thấy một con lừa mẹ buộc với lừa con. Lừa này chưa ai cỡi. Các con hãy cởi dây cả hai con lừa và dắt về đây. Nếu ai có hỏi: Các ông làm gì vậy, sao lại cởi dây lừa như thế ? Các con thưa: Thầy có việc phải dùng, một lát sẽ trả lại

Vâng lời, hai môn đệ đi vào làng và quả đã gặp như Ngài dặn. Thấy ở trước cổng một từ nhà kia, một lừa mẹ buộc với lừa con, các ông liền tới cởi dây, nhưng từ trong cổng nhà, một câu hỏi của chủ nhân vọng tới:

-Các ông có quyền gì dám cởi dây lừa như thế ?

Các ông thưa:

-Thầy (Giêsu) có việc phải dùng và một lát Ngài sẽ trả.

Nghe tiếng Thầy Giêsu có việc phải dùng, chủ nhân gật đầu ưng thuận và các ông dắt lừa đi.

Các ông dắt về cho Ngài cả lừa con lẫn lừa mẹ. Các ông tỏ bộ khoái trá lắm. Các ông cởi áo khoác ngoài trải lên lưng lừa con và đỡ Ngài lên, rồi cùng với các môn đệ khác và dân chúng đã đến Ngài ở Betania từ hôm trước, các ông đưa Ngài vào Jêrusalem, dàn thành một đám rước trọng thể.

Trong đám rước, ngoài những người đến đón ở tận Betania, còn rất có nhiều người ở thập phương đến Jêrusalem trong dịp lễ Vượt Qua. Những người này (nghe tin Ngài sắp đến và biết dân chúng đã lũ lượt kéo nhau đi Betania từ hôm trước để đón Ngài và để mục kích chính ông Lagiarô người chết do Ngài cho sống lại,) đã tỏ ra nhiệt liệt và náo nức. Họ thi nhau ùa ra như nước chảy để đón Ngài. Họ còn xô nhau, chen nhau và cố chạy mau để được gặp Ngài. Kết quả họ cảm động nhìn thấy đám rước, bóng từ bi của Ngài nổi bật lên. Ngài ngồi trên lưng lừa, dáng bộ hiền hòa, nét mặt đầy dung thứ. Ngài khác hẳn những tướng sĩ và những quân vương lúc khởi hoàn, bộ điệu phô trương đầy nộ khí. Ngài thực là Vua Hòa Bình và nhờ Ngài quả đã ứng nghiệm lời tiên tri xưa:

Hỡi Jêrusalem ! Ngươi chớ sợ.

Hỡi thiếu nữ Sion ! Này người cỡi lừa đến với ngươi, chính là Chúa của ngươi.

Ngài là Vua Hòa Bình, và Nhân Ái.

Dân chúng ra đón Ngài với cả một tâm hồn ngưỡng mộ. Lòng ngưỡng mộ đó gặp bóng từ ái của Ngài càng được tăng lên. Đám rước càng chuyển dịch tới gần thành, dân chúng càng tỏ bộ kính mến say sưa. Quả Ngài đã ở trong một cuộc khởi hoàn vinh hiển chưa từng có.

Hôm ấy là tiết mạnh Xuân, trời thanh quang êm dịu. Ánh Xuân mới buông nhẹ trên mấy chòm cây mơn mởn lá xanh non chất đầy hoa nụ. Thỉnh thoảng một cơn gió lướt qua, thổi tràn vào bụi lá xanh mền, từ từ đưa mấy cánh hoa xuống đất. Với nhựa sống dồi dào, với dáng điệu say sưa, thiên nhiên thầm ca những bản nhạc ngày Xuân mới, để chào đón Vua Hòa Bình giáng lâm.

Cảnh tưng bừng ngoài trời ăn nhịp với cảnh náo nhiệt trong lòng dân, đám rước mỗi lúc thêm long trọng. Người lớn trẻ con, đàn ông đàn bà, tất cả đều hớn hở. Họ cởi áo trải đường cho Ngài đi. Họ hái cành lá tung xuống nơi Ngài sẽ qua như tung hoa cho đại tướng, hay phất phới cành lá như phất cờ mừng vị quân vương, họ chúc tụng Ngài như chúc tụng Ngôi Thiên Chúa. Họ hoan hô Ngài không ngừng:

Vạn tuế Vạn vạn tuế !

Vạn tuế Sứ giả của Chúa Trời !

Vạn tuế Con Vua Đavít !

An hòa Vinh hiển Thiên Chúa trên các tầng cao !

Đám rước chuyển động từ Bétphagiê qua một đỉnh đồi rồi hướng về phía tây để nhập thành. Đám rước luôn luôn ở trong bầu không khí nhiệt liệt cảm tình, âm vang tiếng hò reo không ngớt. Tiếng hò reo mỗi lúc vang xa, khiến cả kinh thành chấn động, chấn động trong vinh hạnh và hân hoan, nhưng đồng thời lại làm cho bọn Biệt Phái đi lẫn trong đám rước, bất mãn vì kinh sợ và ghen ghét. Vì ghen với Chúa, họ dám trình Ngài rằng:

-Xin Thầy bảo các môn đệ Thầy im đi !

Nhưng Ngài đáp:

-Ta bảo thật các ngươi, nếu những người này thinh lặng, những hòn đá kia sẽ kêu lên thay.

Nghe thế họ tức giận đầy ruột. Nhưng biết không thể cản trở được Ngài, họ đành quay lại thì thào với nhau:

-Các ngài xem đây, không thể làm gì được. Tất cả thiên hạ đã về phe ông ta !

Nhưng đám rước đang xuống núi Cây Dầu, thì đột nhiên Ngài dừng lại. Vì nơi đây có thể nhìn bao quát khắp cả Jêrusalem, một kinh thành hoa lệ, uy nghi ngự trên hai ngọn đồi lớn dưới bóng một Thánh đường nguy nga và chói lọi giữa những khối cẩm thạch muôn màu óng ả, vây quanh là những dãy tường thành vĩ đại và những cột tháp hiên ngang, để lộ những lâu đài quí giá….. Ngài dừng lại, đám rước cũng dừng theo. Và ngạc nhiên hay bất giác, nghìn cặp mắt hướng về Ngài. Người ta thấy đôi mắt hiền từ của Ngài đặt trên khắp thành, một cái nhìn bao la, nhưng ẩn một nỗi sầu vô hạn. Rồi dần dần những hạt lệ long lanh chạy trên má Ngài và Ngài bắt đầu khóc Jêrusalem tha thiết. Qua tiếng khóc ấy, người ta nghe rõ mấy lời sau đây:

Jêrusalem ! Jêrusalem ! Ước gì ngươi hiểu biết ngày Hòa bình đã dành cho ngươi ! Nhưng than ôi ! Điều đó đã ở khuất mắt ngươi và bây giờ đã muộn ! Rồi đây những ngày tăm tối sẽ đến trên ngươi; Những thù nghịch của ngươi sẽ đào hố chung quanh ngươi, sẽ bao vây ngươi, sẽ ức nhục ngươi cùng con cái ngươi cả bốn phía, rồi sẽ hủy diệt ngươi, không còn để một hòn đá trên một hòn đá, bởi vì ngươi chẳng nhận biết thời gian thăm viếng đã dành cho ngươi !

Trong khi Ngài khóc, bầu không khí bỗng yên lặng, những cành lá đã hết động. Những tiếng chúc tụng đã thôi vang. Toàn dân lắng nghe lời tiên tri của Ngài một cách ưu phiền khôn tả, và nhiều cặp mắt ướt lệ vì sầu thương. Ngài khóc vì thương Jêrusalem, một kinh thành đã chịu bao ân huệ của Ngài, đã được chứng kiến bao phép lạ của Ngài, và các tiên tri. Bây giờ chính Ngài là Con Một Thiên Chúa đến để lập một Nước Hòa Bình và một Nước Yêu Thương giữa loài người, ngõ hầu Jêrusalem biết trở lại, tìm ra con đường vinh quang hạnh phúc cho thế giới. Nhưng nào Jêrusalem có nhận biết đâu ! Jêrusalem vẫn quen thói bội bạc. Hiện giờ giới lãnh đạo Jerusalem đang ngủ say trong kiêu hãnh. Họ còn quyết chơi lá bài ác độc nữa, là sẽ đóng đinh Ngài cho sướng tay. Nhưng rồi Jêrusalem sẽ phải đền tội một cách xứng đáng. Một ngày kia không xa, đoàn quân La Mã sẽ kéo đến, sẽ lôi gót dày xéo Thánh đường, tiêu diệt kinh thành trong biển lửa và biển máu….Ấy chính cái viễn tượng rùng rợn của cuộc tàn phá đó làm Ngài bùi ngùi cảm động và nức nở khóc than !…

Nhưng rồi Ngài đã tiến bước và nhập thành cách phi thường vinh hiển. Những tiếng chúc tụng lại vang lên, những cành lá lại phất phới, toàn dân như phóng tiếng reo hò lên tận trời xanh. Đồng thời từ trong thành ồ ạt chảy ra từng dòng người không ngớt, làm đám rước đã đông càng đông thêm và cả thành tưng bừng náo động. Cảnh tượng đó khiến những khách viễn phương đến dự lễ ngạc nhiên. Họ dò la cho biết thân thế và danh hiệu người được toàn dân đón rước, những người biết câu chuyện liền hãnh diện giải thích cho họ hiểu: Đó là vị đại tiên tri, đó là Giêsu, quê quán Nazareth, thuộc xứ Galilêa.

Chúa Giêsu lên Đền thờ, Ngài nghiêm trang cung kính. Ở đây người ta đã mang đến một số người mù và què để Ngài chữa. Ngài hiền từ giơ tay cho họ khỏi hết. Trước những phép lạ đó, dân chúng càng nhiệt liệt hoan hô nhất là đám nhi đồng. Tiếng chúng sắc nhọn như muốn xé rách bầu không khí chật hẹp của Thánh đường để vang lên bầu trời khoáng đạt mênh mông. Một câu được chúng hô rất rõ rệt nhiều lần Vạn tuế Con Vua Đavít. Thấy vậy giới Biệt Phái và Luật sĩ tức giận đầy gan, họ vốn nuôi thù với Chúa.

Nay lại thấy Ngài chữa bệnh cả trong Thánh đường và để cho đám nhi đồng chúc tụng nữa, họ buộc Ngài vào tội phạm thánh và hạch hỏi Ngài giọng gắt mắng:

-Các nhi đồng kêu la gì trong Đền thờ thế, ông nghe thấy rõ không ?

Ngài bình tĩnh và điềm nhiên trả lời:

-Có ! Ta nghe rõ lắm. Nhưng các người chưa đọc thấy trong Kính Thánh lời này ư:

Từ miệng các nhi đồng và các trẻ con còn măng sữa, Chúa đã làm phát ra những lời khen ý nghĩa ?

Ngày hôm ấy cũng có một số người Hy Lạp đến dự lễ Vượt Qua ở Jêrusalem. Những người này nghe đồn về Chúa từ lâu, nên họ mong được gặp Ngài. Nhưng là dân ngoại nên họ không được vào Đền thờ, họ phải chờ Ngài ở Tiền đình dành cho dân ngoại. Đợi lâu mãi, mới được tin Ngài ở Đền thờ ra. Họ liền xúm đến xin môn đệ cho họ được gặp Ngài. Họ thưa với ông Philippê người thành Bétsai thuộc xứ Galilêa rằng:

-Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp Thầy Giêsu.

Ông Philippê đem lời yêu cầu đó bàn với ông Anrê rồi cả hai cùng giới thiệu họ với Chúa.

Đó là cơ hội rất tốt để Chúa tuyên bố một điều Ngài để ý từ lâu. Nên Ngài vui ra mặt,

ra đến Tiền đình Phụ nữ, Ngài đứng lại cho họ thấy rõ, rồi Ngài trịnh trọng tuyên bố mấy lời sau đây:

-Giờ vinh hiển và khải hoàn Con Người đã điểm. Ta tuyên bố để các người hay: Quả thực, nếu hạt lúa rơi vào đất mà không mục nát đi, nó sẽ trơ trọi một mình. Trái lại nếu mục nát đi, nó sẽ nẩy chồi ra nhiều. Cũng giống thế, ai quá yêu mạng sống mình ở đời này, người ấy sẽ mất sống ở kiếp sau. Trái lại ai sẵn sàng đón nhận sự chết ở đời này, ở đời sau người ấy sẽ được sống và sống mãi mãi. Vậy ai muốn nhận Ta làm lãnh đạo, người ấy sẽ theo Ta. Ta ở đâu những người theo Ta cũng ở đấy, và ai theo Ta đến cùng, người ấy sẽ được Cha Ta trọng thưởng.

Ý Ngài muốn nói: Ngài sắp được hiển vính, muôn dân sắp nhận biết Ngài. Nhưng đời vinh quang của Ngài bắt đầu từ đau khổ, thân thể của Ngài sẽ chết dưới những cực hình nhục nhã, cũng như hạt lúa phải mục nát dưới những lớp đất tối đen. Nhưng rồi những giờ phút khổ nhục sẽ qua đi, nhường chỗ lại cho những ngày vinh hiển. Cũng như hạt lúa thối mục rồi lại chồi lên vươn mình ra ánh sáng, vậy trước khi về nơi vinh hiển, Ngài muốn chịu chết một cách khổ nhục. Không những thế, ai muốn theo Ngài, Ngài muốn người ấy cũng đi con đường đó: Con đường hy sinh sự sống tạm ở đời này, để tìm sự sống vĩnh viễn đời sau. Nghĩa là ai muốn chung phần vinh hiển với Ngài, người ấy phải cùng với Ngài chia xẻ khổ nhục trước đã.

Đó là điều tối hệ mà có lần Ngài đã tuyên bố cho môn đệ và dân chúng. Nhưng hôm nay là một dịp rất đặc biệt, vì là dịp Ngài trọng thể khởi hoàn vào Jêrusalem trước ngày thụ nạn, và là dịp có cả số đông dân ngoại đến dự lễ. Nên Ngài tuyên bố một cách trịnh trọng khác thường và cảm động. Tuyên bố xong, viễn tượng thụ nạn hiện lên trước mắt Ngài cách vô cùng rùng rợn, làm Nhân tính của Ngài sợ hãi, nên rồi Ngài thố lộ với các tông đồ Bây giờ linh hồn Thầy bối rối. Bóng khiếp sợ càng dâng lên cao như tràn ngập khắp tâm hồn Ngài, khiến Ngài có cảm tưởng như toan lùi bước. Nên Ngài lại ngửa mặt lên trời, than thở với Đức Chúa Cha Lạy Cha ! Bây giờ con biết nói gì, xin Cha cứu con khỏi giờ khủng khiếp ấy. Nhưng nhớ tới sứ mạng của Ngài, Ngài lại trấn tỉnh được tâm hồn ngay. Ngài tỏ thái độ của nhà lực sĩ, quyết vật lộn với sự chết và xin Đức Chúa Cha cứ thi hành chương trình đã định. Ngài cầu nguyện:

-Lạy Cha, nhưng chính vì giờ ấy mà Con đã đến. Vậy Cha cứ hiển vinh danh Cha.

Bỗng nhiên từ trên tầng không có tiếng dội xuống:

-Phải ! Ta đã hiển vinh danh Ta và Ta còn làm hiển vinh nữa.

Đó là tiếng Đức Chúa Cha phán, tỏ ý ưng thuận lời xin và ý định hy sinh của Ngài, nhưng dân đứng đó không hiểu. Nhiều người nghe không rõ bảo nhau: Đó là tiếng sấm Nhiều người khác cãi cọ: Đó là tiếng của Thiên thần. Còn Ngài, Ngài bảo mọi người biết đó là tiếng Chúa:

-Tiếng đã vang là tiếng Đức Chúa Cha. Tiếng đó vọng xuống không phải vì Ta, nhưng chính vì các người….Này đây đã đến lúc bản án phạt thế gian phải được thực hiện: Thủ lãnh thế gian sẽ chiến bại và bị ném ra ngoài.

Nghe Ngài tuyên bố, nhiều người lầm hiểu: Thủ lãnh thế gian tức là hoàng đế La Mã, ông vua đáng ghét đối với họ, sẽ bị Chúa Cứu Thế lấy binh hùng tướng mạnh đến đánh phạt và đuổi khỏi khu vực xứ Palestine. Nhưng đối với quan niệm của Chúa, thủ lãnh thế gian tức là quỷ Satan sẽ bại trận và bị đuổi, một khi Con Người là chính Ngài bị treo lên và cờ thánh giá của Ngài phất phới trên núi Sọ. Nên Ngài nhắc lại tích truyện con Rắn Đồng của ông Môi Sen treo trên rừng, để giảng rõ cách Ngài sẽ cứu dân, và bắt quỷ Satan phải thất trận. Ngài nói hết sức rõ rệt và to tiếng cho những người đứng xa cũng có thể nghe thấy:

-Hỡi các người còn nhớ tích truyện Con Rắn Đồng mà ngày xưa ông Môi Sen đã treo ở giữa rừng. Ngày ấy sau khi thoát nạn Ai Cập một cách lạ, dân ta đang lưu lạc trong rừng xanh núi vắng, tìm đường về quê tổ, thì có những con rắn độc tràn vào các trại cắn chết nhiều người. Trước tai nạn đó, ông Môi Sen cầu nguyện. Rồi được lệnh Chúa đúc một con Rắn Đồng treo lên ở giữa trại. Từ đó trở đi, mỗi khi ai phải rắn độc cắn, người ấy với lòng tín nhiệm nhìn lên Rắn Đồng, liền được khỏi. Vậy cần thiết một ngày kia Con Người cũng phải treo lên, để những ai tin tưởng nhìn vào Ngài, cũng sẽ khỏi chết, và nhờ Ngài, sẽ được sống đời đời. Ta nói thật: Khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta.

Những lời Ngài tuyên bố làm nhiều người bỡ ngỡ hoang mang. Họ lấy làm lạ: Ngài. Chúa Cứu Thế mà sẽ bị chết một cách sỉ nhục như người nô lệ và phản bội ư ? Ai hiểu được ?…..Vị tiên tri này kỳ quá ?…..

Trong trí tưởng tượng của họ hiện lên hình một người bị chết treo ghê sợ, quằn quại trên thập giá ! Nên họ cũng cảm thấy ghê sợ và xôn xao. Họ đáp lại Ngài những câu hóc búa:

-Thầy nói lạ. Cứ luật, chúng tôi biết Đấng KiTô tức Chúa Cứu Thế sẽ tồn tại mãi mãi, thế mà thầy lại bảo Con Người sẽ bị treo lên lên khỏi đất !…Vậy Con Người Thầy nói đó là ai ?…

Nhưng Ngài không trực tiếp thưa lại lập luận của họ. Trời đã sắp tối. Cần phải lợi dụng chút thì giờ còn lại để nói rõ thêm về Ngài, nên Ngài tuyên bố:

-Phải ! Đức Chúa Cha yêu quí thế gian, nên đã ban Con Một Ngài cho thế gian để thế gian được cứu thoát, cần phải tin tưởng vào Con Một của Ngài. Và ai không muốn nhận ơn cứu thoát do Con Một của Ngài mang lại, người ấy tự kết án cho mình vậy.

Trời càng sắp tối hơn. Một số người đứng chung quanh Ngài như muốn lẫn trốn ánh sáng, chạy vào bóng tối sau những rặng cột lớn của Thánh đường, Ngài liền mượn thái độ đó áp dụng vào bài ngay:

-Và lý do án phạt ấy, là Ánh Sáng đã xuống thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn Ánh Sáng. Mà sở dĩ nhiều người có điều đáng buồn như vậy, là vì hành vi của họ xấu. Họ xấu, nên họ ghét và xa Ánh Sáng, vì Ánh Sáng tố giác tật xấu của họ.

Trái lại những người thẳng thắn, đâu làm như vậy. Họ sẽ tìm đến Ánh Sáng và nhờ Ánh Sáng, họ sẽ được dẫn tới Đức Chúa Cha.
Chưa hết, nguồn hùng biện của Ngài như chảy mãi không ngừng. Ngài mượn lấy chút ánh sáng còn lại để đưa dần vào những tư tưởng cao xa. Ngài nói tiếp:

-Các người hãy nhận xét: khi ngày đã gần tàn, cần phải biết lợi dụng chút Ánh Sáng cuối cùng để đi đường, kẻo bóng đêm ập xuống sẽ cản trở. Vậy khi các người còn Ánh Sáng, các người hãy lợi dụng; các người hãy tin theo Ánh Sáng và các người sẽ là con cái của Ánh Sáng….

Ngắt một tí, Ngài lại tuyên bố lớn tiếng:

-Ai tin Ta, không phải là tin vào người mà Ta hiện diện ở đây, nhưng mà tin vào Đấng đã sai Ta. Cần thiết phải nhận ở nơi Ta một ánh sáng chân thật để hướng đường đi vì Ta xuống thế gian này cốt để kéo khỏi bóng tối tất cả những người muốn tin theo Ta. Ta biết nhiều kẻ đã được nghe Ta mà không muốn nhận biết. Nhưng bây giờ Ta chưa xét đoán và lên án phạt, vì Ta đến không phải để đoán phạt thế gian, nhưng là để giải phóng. Tuy nhiên, cũng hãy coi chừng ! Ai khước từ Ta và khinh dể lời Ta, ngươi ấy sẽ gặp một viên tài phán. Viên tài phán trong ngày tận thế là ai ? Là chính đạo lý Ta đã mang xuống. Tự Ta. Ta không bịa đặt điều gì, chính Cha Ta khi sai Ta, đã truyền dạy những điều Ta phải nói và phải giảng. Và ai vâng lời Ngài, người ấy sẽ được sống mãi mãi. Ta lập lại một lần nữa, tất cả những điều Ta nói, là nói theo ý muốn của Đức Chúa Cha.

Nghe những lời tuyên bố trên đây, không ai dám hạch hỏi Chúa nữa. Nhưng dầu vậy, dầu thấy Ngài đã làm những phép lạ vĩ đại, nhiều người đã cứng lòng, không tin theo ! Quả nhiên họ đã thực hiện lời tiên tri Isaia xưa: Lạy Chúa ! Ai đã thực tình tin hết những điều Chúa tôi đã nói ? Ai đã hiểu biết rằng chính Chúa đã tỏ quyền phép Chúa trong những công việc kia ? Và tại sao họ không muốn tin như vậy, tiên tri Isaia cũng giải thích như sau đây: Ta đã để mặc chúng cứng lòng và nhắm mắt; vì thế mắt chúng không trông thấy và lòng chúng cũng không hiểu được. Lòng chúng đã hóa chai đá tới nỗi chúng không thèm trở lại để Ta cứu chữa !

Tuy nhiên, đối lại, cũng phải xác nhận rằng, nhiều người đã tin theo Chúa Giêsu. Và trong số đó có cả những người cao cấp thuộc giới lãnh đạo; nhưng còn sợ bọn Biệt Phái, nên họ chưa dám ra mặt công khai. Họ sợ bị đuổi khỏi Giảng hội nghĩa là mất danh hiệu và quyền lợi của người công dân Do Thái. Họ quả là những người nhát đảm, trọng danh dự của loài người hơn danh dự Chúa…

Chúa giảng thuyết xong trời tối hẳn. Dân chúng đổ xô ra về, Chúa Giêsu trà trộn vào dân chúng, cũng ra khỏi thành, trở về Betania. Và đêm ấy, Ngài ở đó với 12 môn đệ…

Chia sẻ Bài này:

Related posts