Đời Sống Bình Dân

NGƯỜI CHA LÀM THỢ MỘC, NGƯỜI MẸ THÊU THÙA, NGƯỜI CON ĐI MÚC NƯỚC..

Một tiểu thôn xứ Galiêa được gọi là Nazareth nghĩa là Cánh Đồng Hoa, vì nơi đó là xứ sở của trăm hoa ; khắp đó đây những cây hoa mọc la liệt làm thành một cánh đồng thiên hương vạn sắc.

Tiểu thôn xinh đẹp ấy, nằm cheo leo bên những ven đồi hướng mặt về cánh đồng Êđơlông (Esdrelon) và ngày nay lởm chởm nào thánh đường, nào tu viện, nào tháp chuông, giữa những ruộng hoa nhịp nhàng tha thướt, những cây trắc bá đen, những dàn nho chi chít quả, những mẫu lúa mì nặng chĩu hạt và những giếng nước bao giờ cũng trong sạch và thơm mát…. Chính trong cảnh sắc đó, Chúa Cứu Thế đã sống trọn quãng đời mai ẩn của Ngài trong khuôn khổ một gia đình bình dân.

Không mấy lúc sau ngày hồi hương, những người bản quán quên rằng có lần ông Giuse đã xuất ngoại. Họ gọi ông cái danh từ đượm mồ hôi Bác thợ mộc

Thợ mộc, nghĩa là một người vừa làm xà nhà, kèo cột, vừa đóng bàn ghế, tủ,giường và có khi liêm cả công việc của thợ nề ( Theo Thánh Kinh kể lại, dụng cụ của thợ mộc là, cái cưa, cái búa, dây nảy mực, cái đục và cái thước đo. ) Công việc thường nhật của ông Giuse là cưa gỗ, làm nhà, đóng bàn ghế tủ, lắp ráp với những con cá thô sơ ; sửa những món cày gỗ, hay làm chuồng bò, chiên, ngựa v..v.. Xưởng của ông là một sân hẹp và một căn nhà nhỏ vừa làm phòng ăn, vừa làm buồng ngủ, có một cái cửa sổ đem vào chút ánh sáng và không khí.

Đồ đạc trong nhà thô sơ, góc này là một hỏa lò để nấu nướng ; góc kia là một cái thùng, dăm ba cái chum (cái lu) đựng nước, quả khô và lúa ; thêm một vài cái nồi và mấy cái đĩa…. Ở chân tường, vài cái rương dùng thay tủ quần áo, vài ba cái thúng và một cái trụ nhỏ nâng đèn dầu để soi sáng ban đêm. Trong nhà có một cái thang hẹp lên gác thượng,

gọi là mái bằng ; về mùa hè mái bằng là chỗ đón giấc ngủ dưới ánh trăng sao….. Có lúc chạy việc, trời thanh gió mát, ông Giuse cảm thấy tâm hồn thanh thản. Có lúc làm không đủ ăn, trời lại nồng nực khó thở trêu ngươi, làm ông khổ sở. Nhưng với Hài Nhi và người bạn hiền trước mặt, ông vẫn cảm thấy nghị lực dồi dào và lòng sung sướng nao nao.

Bà Maria vui việc nội trợ. Khi thì quét dọn ở ngoài sân quanh chỗ ông Giuse làm việc dưới bóng cây vã ; lúc thì thu xếp trong nhà, hay thêu thùa và bếp núc. Bà mặc cái áo dài lượt thượt phai màu viền gấu, đầu đội lúp trùm bỏ thõng xuống đàng sau che món tóc kết lại bằng mấy cây kim cài, chân đi đôi dép đế gỗ. Theo lối phục sức thời ấy, phụ nữ nhà giầu quen nhuộm tóc, đội lúp trùm hình tua rua, trên có đính mấy sao bằng vàng hay bằng bạc lấp lánh, trong người thì mang túi đựng thuốc thơm và đi giầy da gót kín.

Riêng bà Maria thì chuộng lối bình dân, rất giữ gìn trong cách ăn mặc, tuy nhiên vẫn y phục xứng bậc, hợp với thói lành chỗ hương thôn và làm vinh dự cho chồng….

Giêsu một Hài Nhi linh lợi khôi ngô, da dẻ hồng hào trắng mịn, cặp mắt lóng lánh như sao mai, luôn luôn nở nụ cười và thích ở bên Mẹ. Cậu thích bám chặt vào áo Mẹ cả khi người bận việc. Cậu cũng ưa nhìn ông Giuse và thích nhận xét cách ông cưa xẻ.

Giêsu là Thiên Chúa đấy. Nhưng lúc đó thiên tính của Ngài ẩn dưới màn nhân tính, giống như đỉnh núi nằm dưới đợt sương mù. Với tầm thước tí hon, Ngài đưa mắt nhìn vũ trụ. Ngài ưa xem Mẹ Ngài xay bột trong cái cối xay bằng hai thớt đá chồng lên nhau, rồi pha men và nướng bánh. Ngài ngắm nhìn đường kim mũi chỉ trong tay Mẹ, và nhiều khi Ngài theo Mẹ đi múc nước, rồi lại theo sau Mẹ đội vò nước về nhà.

Người Nazareth hay thay đổi. Họ đang chuyện trò vui vẻ, bỗng sinh sự cãi nhau om sòm, nhất là ở bên bờ giếng, do vậy có câu thành ngữ mỉa mai Cáu kỉnh như người Nazareth Trong việc tiếp xúc với họ, Thánh gia phải ý tứ luôn luôn và rất êm đẹp, nhưng thế cũng không xong. Những kẻ khó tính thay vì khen những người họ thường tới lui, là đơn sơ chân thật, tận tâm, và vui vẻ ; họ lại đưa ra những lời không khéo :

Cái gia đình đó mới thật là gàn, đạo đức không phải lối. . . . .

Người khác đệm thêm :

Ừ ! mà việc gì phải qua Ai Cập.

Lại có kẻ thấy Thánh gia thuận hòa cách lạ, nhất là thấy Hài Nhi thông minh ngoan ngoãn, họ đâm ra ghen. Trong lúc trò truyện họ chỉ trích :

Bà ấy yêu con như thờ Chúa tể.

Phải ! Mà việc gì phải thờ, phải yêu như thế.

Bất quá cũng là con bác thợ mộc là cùng mà thôi !

Giữa cảnh Nazareth êm đềm đầy thi hứng Hài Nhi Giêsu đã lớn lên, mạnh lên và trí khôn Ngài đã tuần tự thức tỉnh

Giêsu đi nhà trường (là Thiên Chúa, Chúa Giêsu không cần đi học cũng dư biết. Nhưng Ngài muốn giữ luật thường như bao nhiêu người khác) Cậu học hành chăm chỉ, và mê man đọc những cuốn sách Sử và Tiên Tri.

Cứ hình thức, Giêsu là một con trẻ như bao con trẻ khác. Trước kia khóc cười, cười khóc và lẫm chẫm tập đi, ngày nay cậu đã cao lên và đầy đặn, cậu tra tay vào công việc xưởng mộc và đồng áng. Ông Giuse có một khu đất nhỏ trên đồi, những giờ rảnh việc ở xưởng, ông đi cuốc đất. Giêsu cũng đi theo; Cậu đem theo đoàn chiên đi chăn, thỉnh thoảng lại nhìn ông cuốc xới, đốt cỏ và gieo hạt, đôi khi Cậu cũng phụ giúp ông đào cuốc… Lúc về Cậu thường hái cho Mẹ mấy bông huệ rừng, mấy bông mẫu đơn hay vài chùm nho chín thẫm.

Ông Giuse mãi miết làm việc cả ngày, nhưng lòng trí luôn nhớ tới người con thân yêu, nhất là nhớ lúc Mẹ Ngài tập cho Ngài bập bẹ nói tiếng Giavê nghĩa là Thiên Chúa tức là Cha thật của Ngài.

Nhưng nếu người ta thấy nhiều con trẻ có xu hướng về âm nhạc, hội họa hay về văn chương thi phú…. Thì người ta thấy trẻ Giêsu là một thần đồng siêu việt trong địa hạt Tôn Giáo. Trẻ Giêsu có những quan điểm rõ rệt, cao thâm về kinh nghiệm nghi lễ. Quả thật thiên tính của Ngài, đã lần lần chiếm lấy khoảng không át cả nhân tính ở trong Ngài, cũng như mặt trời chói sáng giải hào quang xuống trái đất, mây mù càng tan lỏng ra. Người ta cảm thấy ơn Chúa ở trong Ngài. Và thân phụ vui sướng vì thấy ánh vinh quang của thiên tính ở trong Ngài tỏa sáng ra.

Mỗi ngày hai buổi Thánh gia cầu nguyện chung, ông Giuse đứng đầu xướng xuất. Ông thường rút ở trong cái hộp treo ở gần cửa ra một cuốn sách bằng da cừu, xướng kinh ban mai, và ban tối : Chỉ có Chúa chúng ta là chính Thiên Chúa độc tôn. Con phải thờ phượng kính ái Người với hết tâm hồn con …

Các ngày thứ bảy trong tuần là ngày tiến dâng Thiên Chúa. Ngay từ chiều hôm trước, lúc mặt trời ẩn sau ngọn núi, một hồi kèn trong làng vang lên báo hiệu ngày thứ bảy đã gần. Mọi người mau mau thu xếp công việc, vì một giờ sau, tiếng kèn vang lần nữa, là ngày thứ bảy bắt đầu rồi. Từ lúc đó trong mọi nhà phải nhóm lên ngọn đèn của ngày thứ VII (Chính chữ là Lampe du Sabbat)

Đèn nhóm lên tượng trưng một ngày vinh quang hoan hỷ. Trong vòng 24 giờ không ai được thổi nấu, người ta phải giữ sẵn trong lò của ăn đã dọn sẵn từ hôm trước. Ngày thứ VII toàn dân đi nhà Giảng Hội cũng như giáo hữu đi nhà thờ.

Theo tinh thần Luật, trong cả nước chỉ có một nơi thờ phượng là Đền Thánh ở thành Jêrusalem thôi. Nhưng vì xa xôi cách trở, nên mỗi làng, dân thường xây một giảng đường để hội nhau cầu nguyện và nghe diễn giảng. Theo quan niệm của dân, nhà giảng hội là nơi thiêng liêng nhất trong làng. Nhà giảng hội hình vuông, ở giữa nổi lên một giảng đàn trên có giá sách cho diễn giả. Chung quang giảng đàn kê một tủ chứa những cuốn Thánh Kinh bằng da. Người ta tới nhà giảng hội từng gia đình một. Lễ phép vào rửa tay trong cái chậu to để ở ngưỡng cửa, rồi nam giới ngồi với nam giới, nữ giới ngồi với nữ giới.

Hát ca vịnh xong, một thầy đạo trưởng, hay là một thầy thông giáo đọc sách và giảng nghĩa Lề Luật. Nếu diễn giả là thầy đạo trưởng, thì diễn giảng xong, thầy phải làm phép lành cho cử tọa.

Buổi chiều, người ta đi thăm nhau, nhưng không được đi quá xa, vì Luật cấm. . . . . . . .

Đời sống của Thánh gia đã lần lượt trôi theo chuỗi ngày làm việc và nghi lễ trong khung cảnh êm đềm đó, trừ ra có một năm kia lộng lên cơn thử thách : ấy là lúc Hài Nhi lên 12 tuổi đi lễ ở thành Jêrusalem.

Chia sẻ Bài này:

Related posts

Leave a Comment