Anh
đào là một trong những đặc điểm của thành phố Đà
Lạt, điều này ai cũng mặc nhiên công nhận. Vào những ngày
mùa Đông sắp sang Xuân, khi cái giá lạnh bao trùm lấy thành
phố thơ mộng này, khi sương sớm giăng mắc khắp nơi,
phủ kín những đỉnh đồi và che mờ những ngọn thông,
anh đào bắt đầu nở. Trong những chiếc nụ xanh biếc ấp
ủ những cánh hoa cuộn tròn màu hồng nhạt, rồi cùng với
thời gian và gió nắng, cánh hoa lớn hơn, tươi thắm hơn. Và
sau cùng vào một ngày bí mật được vũ trụ định sẵn,
những nụ hoa hé nở, run rẩy một chút trước cái lạnh
của tiết mùa; nhưng như những cô thiếu nữ của lứa
tuổi dậy thì, những bông anh đào nẩy nở hơn, lớn lên,
xinh đẹp, mạnh thêm trong một sức sống dồi dào với dáng
vẻ hớn hở yêu đời.
Nhi
yêu những bông hoa anh đào vô cùng. Vào những buổi sáng
cuối Đông, Nhi đứng trên đỉnh đồi, nơi ngôi biệt thự
màu trắng của gia đình nàng tọa lạc, nhìn xuống để
thấy anh đào nở rực cả thành phố, nhuộm thắm một màu
hồng, đẹp như cô thiếu nữ ngày về nhà chồng. Mỗi
lần nghĩ đến điều ấy, đôi má Nhi lại hồng lên và nàng
thấy khuôn mặt mình nóng ran. Khi ấy ai bất chợt được
ngắm dung nhan Nhi, chắc đều mường tượng đến bài cổ
thi “Đề Tích Sở Kiến Xứ” mà ngày xưa Thôi Hộ
đời Đường trong một phút xuất thần đã múa bút đề trên
vách nhà người thiếu nữ Đào Hoa thôn:
Khứ
niên, kim nhật, thử môn trung,
Nhân
diện đào hoa tương ánh hồng.
Nhân
diện bất tri hà xứ khứ,
Đào
hoa y cựu tiếu Đông phong. (1)
Nhi
có người yêu là Thạch, từ Sài Gòn lên Đà Lạt theo học
trường Võ Bị Quốc Gia. Thạch người gầy, cao, da ngăm đen
nhưng không có vẻ từng trải mùi đời cho lắm; ở con người
Thạch thoáng toát ra một vẻ vừa đàn ông vừa trẻ thơ.
Anh có những lúc suy tư già giặn, chín chắn, nhưng lại có
những khi đặt cho Nhi những câu hỏi hết sức ngây thơ,
buồn cười. Nhi yêu cả hai con người của Thạch, bởi nàng
vừa thích được người yêu chiều chuộng vừa thích
chiều chuộng người yêu.
Sinh
viên trường Võ Bị Quốc Gia là hình ảnh thần tượng
của các thiếu nữ Đà Lạt. Ngày chủ nhật nắng ấm đi
dạo phố bên cạnh người yêu là sinh viên Võ Bị, chững
chạc và nghiêm chỉnh trong bộ lễ phục thích hợp với
từng mùa, kể ra là một niềm vui, đồng thời cũng là
một niềm hãnh diện. Nhi yêu Thạch không vì bộ lễ phục
ấy, cũng không phải vì cái “mốt” thời đại, nhưng vì
chính con người và tính nết của Thạch. Tình yêu của
Thạch dành cho nàng đầy tràn ấm áp. Với Thạch, Nhi là người
tình, người bạn và là người em gái nhỏ bé. Thạch yêu
Nhi tự nhiên, không tiết chế, cũng không bộ điệu, làm dáng.
Có những buổi Thạch kèm Nhi học toán, đang trơn tru giảng
giải, bất chợt Thạch nói:
-
Mình nghỉ một chút đã.
Nhi
ngơ ngác:
-
Để làm gì anh?
Thay
vì trả lời, Thanh ôm lấy vai Nhi, chàng cúi xuống ghé hôn
một cái nóng bỏng trên môi nàng. Nụ hôn đốt cháy người
Nhi và làm cho nàng nghẹt thở.
Sau
đó, Thạch nói:
-
Em đỡ mệt chưa? Học tiếp nhé!
Nhưng
Nhi phản đối:
-
Chẳng thấy đỡ mệt gì cả, anh chỉ làm cho Nhi mệt thêm.
Thạch
cười hì hì rất hồn nhiên làm Nhi cũng cười theo.
Hai
người ít có dịp đi dạo với nhau ngoài phố. Mẹ Nhi
muốn con mình và cậu bạn trai ở nhà, nói chuyện, dùng cơm
với gia đình hơn là rủ nhau ra phố để rồi “lang thang
chả biết đi đâu, mỏi chân vô ích”. Bà cụ không biết
rằng cái chuyện “lang thang chẳng biết đi đâu” và
“mỏi chân” thì quả có thật, nhưng nó không phải là
chuyện “vô ích” đối với hai người đang yêu nhau. Hay nói
đúng hơn, khi hai người yêu nhau, người ta không nghĩ đến
chuyện “có ích” hay “vô ích” mà chỉ nghĩ đến
chuyện được gần nhau thôi. Tuy nhiên Nhi và Thạch là người
dễ dãi, thấy mẹ Nhi muốn hai người ở nhà, cả hai vui
vẻ ở nhà ngay, không phản đối gì cả. Vào những ngày
cuối tuần, Thạch ra nhà Nhi chơi. Bao giờ chàng cũng mặc
bộ lễ phục của sinh viên Võ Bị rất nghiêm chỉnh. Nhi yêu
cái phong thái chững chạc của Thạch, còn mẹ Nhi thì bảo
con gái: “Thạch nó được hơn những anh bạn khác của con
nhiều”.
Trong
khi bà mẹ lúi húi lo cơm nước thì Nhi đưa Thạch lên phòng
học. Thạch rất giỏi về những môn khoa học, chàng kèm
cho Nhi về toán, vật lý, hóa học. Tất cả những bài vở
trong tuần chưa thanh toán xong, vì khó hiểu hay vì… lười,
Nhi khuân ra cho bằng hết. Thạch giảng giải cặn kẽ cho người
yêu từng bài một và Nhi hí hoáy ngồi ghi chép, trông ra dáng
một “gia sư” với con gái của ông bà chủ. Nhưng thỉnh
thoảng hai người buông bút, hôn nhau, thì chẳng còn thấy
“gia sư” đâu nữa, Nhi chỉ tìm thấy ở Thạch một người
tình đam mê và lôi cuốn.
Buổi
học kéo dài đến trưa, bao giờ có tiếng dép của bà mẹ
lên phòng học là hai người đều đã sẵn sàng trở lại tư
thế nghiêm chỉnh. Bà mẹ gõ cửa phòng bước vào, thấy
con đang được anh bạn trai chỉ dẫn học hành, lấy làm hài
lòng lắm. Hai người theo bà xuống phòng ăn, cả nhà đã
sẵn sàng ở đấy. Bố Nhi luôn luôn vắng nhà, ông hành quân
liên miên ở những vùng xa xôi. Ơ nhà chỉ có mẹ, Nhi và các
em. Có sự hiện diện của Thạch, một anh con trai lớn trong
nhà, tự nhiên không khí trở nên vui hơn, đầm ấm hơn.
Mẹ Nhi người Hà Nội, bà làm các món ăn rất khéo. Chủ
nhật nào bà cũng làm các món đặc biệt gì đó cho các con
ăn thỏa thích. Bà thường làm lấy một mình, nhưng đôi
khi bài vở ít, Nhi xuống bếp giúp mẹ và Thạch cũng lò dò
đi theo. Chàng thích thú khi ngắm người yêu trong vai trò
nội trợ, dù rằng Nhi chỉ được phép làm… thơ, còn
tất cả mọi việc gia giảm, pha chế bà cụ đều tự tay
quán xuyến cả. Thạch thèm rỏ rãi khi thấy những chiếc bánh
tôm lềnh bềnh trong chảo mỡ, những sợi khoai xắt thật
nhỏ vàng xậm lên và con tôm trên mặt dần dần chín đỏ.
Lát nữa đây những chiếc bánh tôm Cổ Ngư này sẽ được
cuốn trong một lá xà lách xanh ngát mắt, với những loại
rau thơm, rồi được chấm sâu vào một chén nước mắm
giấm ớt chua chua ngọt ngọt, với những sợi cà rốt đỏ
cam, thơm và giòn… Thạch không tưởng tượng thêm được
nữa, chàng cảm thấy thèm quá đỗi! Lần khác cả Thạch và
Nhi đều ngồi bó gối bên cạnh bà mẹ trong căn bếp nghi
ngút khói thơm mùi bột chín. Bà mẹ đang tráng bánh cuốn.
Một chiếc thùng gỗ tròn to, trên bọc vải mỏng được dùng
để tráng bánh. Bà cụ để bột lên trên mặt vải, dùng
chính chiếc muôi múc bột để giàn bớt ra cho đều, tay kia
bà cầm một chiếc đũa dài, với những động tác rất khéo
léo và kịp thời, bà dùng chiếc đũa đó cuốn từng tấm
bánh cuốn, đặt vào chiếc đĩa to, bánh nóng hổi và thơm
phức. Lát nữa đây những chiếc bánh này sẽ được dùng
với giò bò và đậu phụ rán, chấm nước mắm giấm với
ớt khô giã nhỏ pha theo khẩu vị của mình. Tuyệt vời!
Thạch
mê thức ăn của mẹ Nhi vô cùng. Có lần Nhi hỏi Thạch:
-
Tại sao anh thích đến nhà em?
Thạch
trầm ngâm một lúc rồi trả lời:
-
Hai lí do.
-
Thứ nhất là…?
Thạch
đáp:
-
Là vì em. Em đẹp và dễ thương quá!
-
Thế còn thứ hai là …?
-
Là vì thức ăn mẹ làm ngon quá! Không tìm thấy ở đâu khác!
Nhi
cười hồn nhiên:
-
Anh xấu lắm, tham ăn nhé!
Thạch
cãi:
-
Không! Anh chỉ thành thật thôi. Đàn ông con trai nào cũng thích
ăn ngon, chỉ khác nhau là có người không nói ra, còn có người
nói thẳng cho người khác biết. Anh thuộc loại thứ hai.
Nhi
không vặn vẹo thêm nữa, nhưng nàng nói tiếp:
-
Giả như bây giờ mẹ không biết làm thức ăn ngon, anh còn
đến đây không?
Thạch
nịnh:
-
Có phải nhịn đói mà được đến đây mỗi ngày, anh vẫn
đến. Em đẹp và dễ thương quá mà!
Nhi
lấy làm thỏa mãn, nhưng nàng vẫn nói thêm:
-
Em sợ mai mốt lấy nhau anh sẽ khổ, tại em không giỏi như
mẹ đâu, em chỉ biết nấu nước sôi với luộc trứng thôi!
Thạch
đùa:
-
Em đừng lo, mai mốt anh nấu cơm cho em ăn. Ngày xưa anh đi hướng
đạo mà, nấu cơm giỏi lắm à!
Hai
người sống với nhau hồn nhiên, thân thương như vậy, và
họ thấy cuộc đời hạnh phúc quá, đáng yêu quá.
Trong
những năm hai người quen biết nhau, dịp Tết nào Thạch cũng
đem đến cho gia đình Nhi một cành anh đào lớn, kèm theo
một thúng trái anh đào chín nữa. Lần đầu tiên thấy
Thạch khệ nệ vác cành anh đào lại, Nhi hỏi liền:
-
Anh chặt cành đào của thành phố phải không? Coi chừng quân
cảnh bắt nhốt anh à nhe!
Nhi
hỏi vậy vì nàng nghe nói nhiều người hay chặt trộm anh
đào về chưng hoặc đem về làm quà cho người Sài Gòn. Nhưng
Thạch nói ngay:
-
Em đừng nghĩ lầm, anh là sinh viên trường Võ Bị mà, làm
sao đi chặt trộm anh đào của thành phố được. Anh có người
bà con ở đây, họ có một trang trại lớn, trồng nhiều
anh đào vô cùng. Anh tha hồ lựa chọn.
Rồi
chàng ra vẻ giỗi:
-
Chán quá! Công lao chọn gần nửa buổi mới được cành anh
đào vừa ý, lại tốn bao nhiêu sức lao động để chặt và
đem nó về đây. Em không thương, không khen, lại còn hỏi có
phải anh đào chặt trộm không. Buồn ơi là buồn! Chắc hôm
nay anh ăn cơm không được!
Nhi
cười vuốt tóc Thạch:
-
Thôi mà, cho em xin lỗi, tại em lo cho anh đấy thôi. Đừng
buồn nữa, em thương.
Thạch
tươi ngay nét mặt, trong khi Nhi chỉ thúng anh đào chín,
hỏi tiếp:
-
Còn thúng này để làm gì đây, ai ăn?
Thạch
cốc nhẹ vào đầu Nhi:
-
Em ở nhà mà chẳng biết gì cả. Thế em không nhớ bữa
nọ mẹ nói anh đào chín làm rượu uống rất ngon, rất say
à? Có mây cây ra hoa sớm, bây giờ đã kết quả rồi. Thúng
này anh mang cho mẹ, em chỉ được cành hoa thôi.
Nhi
cầm một trái anh đào lên. Cái màu đỏ thẫm trên làn da
trông thật đẹp, nàng nhấm thử rồi nhăn mặt:
-
Trông đẹp thật, nhưng cái mùi khó chịu lắm anh ạ, nó
ngai ngái làm sao ấy!
Thạch
cười, nói bóng gió:
-
Cái gì đẹp cũng khó chịu cả. Nhưng khi thành rượu rồi
thì làm cho người ta say.
Rồi
chàng giục:
-
Thôi, để anh đem tất cả vào nhà.
Trong
khi hai người trẻ tìm một chỗ thích hợp trong phòng khách
để dựng cành anh đào, thì bà mẹ vui vẻ với thúng anh đào
chín. Bà nói:
-
Cái thứ anh đào này làm rượu thì ngon phải biết!
Nhi
hỏi:
-
Làm cách nào hở mẹ?
Bà
mẹ cười và đùa:
-
Bí mật! Bao giờ con lấy chồng mẹ sẽ dạy làm rượu anh
đào cho chồng uống.
Nhi
thẹn đỏ chín cả mặt.
?
Sau
ba năm quen nhau, vào một mùa Xuân đầy nắng ấm, nước
hồ Than Thở xanh và trong vắt, hoa vườn Bích Câu đua nhau
khoe thắm, và anh đào mặc áo hồng cho thành phố, Thạch và
Nhi lấy nhau. Thạch đã tốt nghiệp trường Võ Bị, đang
chờ đi nhận đơn vị, còn Nhi đang học dở dang chương trình
cử nhân Văn khoa ở đại học Đà Lạt. Đám cưới không
linh đình, không sang trọng lắm, nhưng thật vui. Cả Thạch
lẫn Nhi đều có nhiều bạn bè và cả hai đều được các
bạn mến; dĩ nhiên cũng có vài người bạn trai của Nhi khi
đi dự đám cưới phải đeo kính đen, nhưng chuyện đó Nhi
không biết phải làm sao hơn. Nàng biết có nhiều người yêu
mình, nhưng nàng chỉ chọn được một. Các bà bạn của
mẹ Nhi đều khen đôi trẻ thật xứng đôi vừa lứa. Bà
mẹ lấy làm mãn nguyện lắm.
Sau
tiệc tân hôn, mọi người về nhà Nhi. Bà mẹ nói với
Thạch:
-
Con không có nhà cửa ở thành phố này, cứ về đây, đừng
lo ai cười. Họ cười thì họ hở mười cái răng. Thời
buổi khó khăn này mà cứ đòi khư khư giữ lấy những cái
luật cổ hủ thì thật là giết nhau!
Thạch
cảm động về mối chân tình mà mẹ Nhi dành cho mình. Chàng
tìm thấy ở gia đình này tình thân và sự chân thành. Đêm
hôm ấy, Thạch và Nhi uống rượu anh đào do chính bà cụ làm.
Chất rượu chua chua, ngọt ngọt, cay cay làm tê đầu lưỡi
thanh xuân.
Sáng
hôm sau, hai người ra vườn nhìn xuống thành phố còn ngái
ngủ. Những ngọn đèn vàng vọt chưa tắt nhưng ánh sáng
tỏa ra không đủ đánh tan lớp sương mù che phủ khung
trời. Xa xa núi đồi chập chùng ẩn hiện trong làn ánh sáng
đầu ngày trắng đục như sữa. Nhưng chỉ một thoáng sau,
mặt trời đỏ ối đã xuất hiện. Một ngày khởi đầu
rực rỡ và ấm áp. Hai người đứng ôm vai nhau, cảm nhận
tiếng cựa mình thức giấc của cỏ hoa trong vườn, nghe
tiếng chim hót trên những ngọn cây thông cao vút. Màn sương
tan dần, để lộ thành phố dưới kia với màu hoa anh đào
hồng thắm, đẹp hơn cả một bức tranh.
Nhi
thấy yêu Thạch quá, nàng thì thầm hỏi nhỏ:
-
Tối qua anh có say không?
Thạch
cũng thì thầm:
-
Có! Say rượu anh đào và say cả em.
Lấy
nhau được nửa tháng, Thạch đi nhận đơn vị. Chàng chọn
binh chủng Nhảy Dù và được đưa đi Ban Mê Thuột. Thạch
với dáng dấp chưa phai nét thư sinh, nhưng tâm hồn lại vô
cùng quả cảm, chàng ý thức rõ rệt nhiệm vụ của người
trai thời chiến và chàng quan niệm: đã đánh giặc phải đánh
cho nên hồn. Và với nhận định ấy chàng chọn binh chủng
Nhảy Dù, một trong những binh chủng thiện chiến nhất
của quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày
Thạch đi, Nhi tiễn chồng ra tận nơi tập trung và nàng
nhớ lại những câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm:
Ngòi
đầu cầu nước trong như lọc,
Đường
bên cầu cỏ mọc còn non.
Đưa
chàng lòng dặc dặc buồn,
Bộ
khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Nước
trong chảy mà phiền chẳng rửa,
Cỏ
xanh thơm dạ nhớ khó khuây.
Nhủ
rồi tay lại cầm tay,
Bước
đi một bước dây dây lại dừng…
Và
sau khi tiễn chồng, nàng trở về nhà một mình, lòng buồn
hiu hắt. Đành rằng Thạch ra đi là đúng với sở nguyện
của chàng và nàng cũng hãnh diện có một người chồng như
vậy, nhưng mỗi lần nhớ đến câu “cổ lai chinh chiến
kỉ nhân hồi” nàng không khỏi thấy trái tim mình se
thắt lại.
Từ
ngày Thạch ra đi, bà mẹ thương con gái hơn. Bà thương bà,
thương con gái và thương số phận của tất cả những người
phụ nữ trong thời chiến. Như con gái bà chẳng hạn, lấy
chồng nửa tháng, chồng đã vội từ giã, đem thân vào nơi
chinh chiến, ngày trở về không bao giờ dám hẹn chắc. Yêu
nhau mà không được gần nhau. Cái bi thảm của cuộc đời
phần khá lớn cũng nằm ở đấy. Chính bà cũng ở trong
số phận bi thương ấy. Lấy chồng hơn hai mươi năm, tổng
cộng ở với chồng không được tám năm. Ong đi hành quân
liên miên, thỉnh thoảng đáo về nhà thăm vợ con hai ba ngày,
nhiều lắm là một tuần lễ. Là một cấp chỉ huy gương
mẫu, không bao giờ ông muốn bỏ thuộc cấp gian nan để hưởng
thú gia đình một mình.
Bà
mẹ dạy cho Nhi cách làm những món ăn ngon: bánh tôm, bánh
cuốn, bún thang, giò, nem, ninh, mọc… Bà cũng chỉ cho Nhi bí
quyết cất rượu anh đào, cách chọn từng trái anh đào chín,
cách ủ men làm dậy hương thơm. Nhi học rất chăm chú, có
lẽ còn chăm chú hơn khi nàng học những bài học ở trường
ngày xưa. Bây giờ nàng không học cho nàng, nhưng học cho
Thạch, nàng biết Thạch thích ăn ngon nên muốn tự tay làm
những món ăn cho Thạch. Tưởng tượng đến vẻ ngạc nhiên
của Thạch và câu nói của chàng: “Em làm lấy được
thật à? Sao giỏi thế?” là Nhi thấy vui. Thạch có cách nó
thật tự nhiên không khách sáo, không gọt giũa ngôn từ.
Những buổi chiều, Nhi thường đứng trên đồi, trong khu vườn
sau nhà nàng, nhìn ra phía núi đồi chập chùng đằng xa. Nàng
hướng về xứ Buồn Muôn Thưở và nàng nghĩ rằng: “Đằng
sau dãy núi kia và dưới vầng mây trắng đó là nơi chàng
đang chiến đấu. Xin Chúa giữ gìn chàng bình yên”.
Lần
đầu tiên Thạch về phép, Nhi mừng tíu tít, nàng nói cười
huyên thuyên. Thạch khoẻ ra, đen hơn, vẻ thư sinh mất hẳn,
nhưng bù vào đó chàng có một khuôn mặt trầm ngâm và cương
nghị. Khi Thạch vừa xuất hiện ở khung cửa, Nhi không
cầm giữ được, nàng ôm chầm lấy chồng và nước mắt
trào ra ướt mi. Thạch lau nước mắt cho vợ bằng cườm
tay đã chai dạn của chàng và dìu nàng vào nhà. Cả nhà
từ bà mẹ đến bé út đều vui hẳn lên. Nhi tíu tít lấy
quần áo cho Thạch đi tắm, rồi ra chợ mua thức ăn để làm
cơm. Nàng chọn làm món “Bánh Tôm Cổ Ngư” là món Thạch
vốn thích nhất. Bây giờ nàng đã học được bí quyết làm
thế nào thái những sợi khoai cho thật nhỏ, pha bột thế nào
cho không bị vón cục, chảo mỡ phải nóng cỡ nào mới
thả từng cái bánh vào, và màu sắc như thế nào tức là bánh
đã chín tới. Nàng cũng đã biết được cách pha nước
mắm thế nào cho đúng vị Thạch thích. Buổi trưa hôm ấy,
Thạch dùng một bữa ăn ngon lành, còn Nhi thì hình như không
ăn gì cả. Nàng ngồi chống đũa nhìn Thạch ăn và nghe
Thạch kể chuyện. Chàng có nhiều chuyện để kể quá và
Nhi thì cứ thích nghe hoài. Kể một thôi một hồi, Thạch
ngưng lại hỏi Nhi:
-
Thế ở nhà, em có gì lạ không? Kể cho anh nghe với?
Nhi
trả lời bằng một câu thật ngắn:
-
Ngày nào em cũng nhớ anh.
Mấy
đứa bé cười như nắc nẻ và lêu lêu chị, nhưng Thạch
cảm động ghê lắm. Chàng biết Nhi yêu mình lắm, yêu
bằng một tình yêu rất nồng nàn và tự nhiên.
Buổi
tối hôm đó, hai người đi lang thang trong thành phố. Bây
giờ mẹ Nhi không cho là “đi lang thang vô ích” nữa, bà
để cho hai người trẻ làm bất cứ điều gì họ muốn.
“Hai đứa yêu nhau quá mà cứ xa nhau biền biệt, được
ở gần nhau vài ngày, cho chúng nó được tự do. Vả lại dù
sao chúng nó cũng đã là vợ chồng”. Bà nghĩ thế và yên
tâm đi ngủ sớm.
Đi
lang thang chán, Thạch đưa Nhi vào một quán chè. Ban đêm
trời lạnh, ăn một chén chè đậu xanh nóng thật tuyệt.
Hai người sống lại thưở còn là người tình của nhau. Ngày
ấy Thạch gặp Nhi cũng trong quán chè này, chàng và một vài
người bạn vào đây ăn một li chè cuối ngày nghỉ, trước
khi trở vào trường. Nhi đang ở trong quán đó với các cô
bạn gái. Các cô mặc áo dài nữ sinh Bùi Thị Xuân màu xanh
lam, nói cười hồn nhiên tíu tít. Vừa nhìn thấy Nhi, tim
Thạch như ngừng đập. Có một cảm giác lạ lùng nào đó
ùa tới, thấm sâu vào tâm hồn chàng. Thạch bỗng dưng
biết một cách rõ ràng đây là người mà Chúa định đặt
sống bên cạnh mình suốt đời. Bởi thế, mặc cho bạn bè
cười nhạo, Thạch tìm cách làm quen với Nhi ngay lúc đó, hơi
đường đột nhưng rất tự nhiên. Và tuy e ấp, Nhi cũng đáp
lại sự làm quen của Thạch. Nhi cho Thạch địa chỉ. Đúng
một tuần lễ sau, sáng chủ nhật nghe tiếng bấm chuông,
Nhi ra mở cửa thấy Thạch đã đứng chờ sẵn. Nhi hơi
sửng sốt, trong khi Thạch đòi nàng đưa vào nhà chào bà
mẹ rồi chàng đường hoàng ngồi ở phòng khách nói
chuyện với hai mẹ con. Sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy, hình
dáng chàng sinh viên Võ Bị Quốc Gia trở thành quen thuộc
với gia đình Nhi. Hầu như ngày nghỉ cuối tuần chàng không
đi đâu cả, chỉ đến nhà Nhi, kèm nàng làm bài, phụ giúp
mẹ Nhi vài việc lặt vặt, chơi với các em Nhi. Thạch chơi
bóng bàn rất giỏi, đánh tây bàn cầm tuyệt vời khiến các
em của Nhi phục lăn.
Ở
quán chè ra, hai người đi bộ về nhà. Vào phòng khách, Nhi
đốt lò sưởi. Cả hai ngồi nhấm nháp rượu anh đào và
ôn lại với nhau rất nhiều kỉ niệm từ thưở ban đầu yêu
nhau.
Sau
lần Thạch về thăm nhà lần đầu tiên ấy, Nhi có thai. Nàng
trở nên mệt mỏi và lười đi lại. Nhi thường ở trong phòng,
viết thư cho Thạch, nàng kể cho chàng biết những thay đổi
của em bé mà nàng đã cảm thấy trong bụng mình. Nhi cũng
thường ngồi đan áo cho chồng và cho con. Cuộc đời nàng bây
giờ, nếu có những hạnh phúc thì hạnh phúc ấy hoàn toàn
tuỳ thuộc vào người chồng đang chiến đấu miền xa và
đứa con chưa chào đời. Với Nhi cuộc đời như thế đã là
đẹp. Nàng có người yêu mình và có những người để mình
yêu.
Thạch
về thăm nhà lần thứ hai thì chỉ còn hai tháng nữa Nhi
sẽ hạ sinh đứa con đầu lòng. Nhi không được khoẻ cho
lắm. Nàng có hơi mập ra một chút, nhưng da xanh và cảm
thấy mệt nhọc vô cùng. Thạch lo sợ, chàng muốn vợ dùng
thuốc bổ, nhưng mẹ Nhi cho rằng uống thuốc bổ nhiều,
thai to khó sinh. Bà nhắc nhở Nhi chịu khó đi lại, cất
nhắc nhiều, dù có cảm thấy mệt mỏi. Bà đem kinh nghiệm
của người đàn bà bảy lần có thai ra chỉ vẽ cho con gái
đầu lòng. Bà cũng vui khi nghĩ mình sắp có cháu ngoại và
mong rằng đó là một đứa cháu trai.
?
Nhi
sinh con trai đầu lòng- đúng như sở nguyện của mẹ Nhi- vào
giữa lúc mặt trận Ban Mê Thuột gay go nhất. Cộng quân bao
vây thành phố cao nguyên này, cắt đứt mọi đường tiếp
tế. Ban Mê Thuột chìm trong khói lửa. Nằm trên giường
bệnh viện, nghe những lời bàn tán xôn xao của người
chung quanh, Nhi thấy chết điếng trong lòng. Không biết số
phận Thạch, người chồng thân yêu của nàng ra sao! Nếu chàng
có mệnh hệ nào, thì… Nhi rùng mình không dám nghĩ tiếp.
Mỗi
ngày nhân viên bệnh viện đưa em bé ra cho nàng ẵm hai lần.
Đứa bé xinh đẹp bụ bẫm với khuôn mặt giống bố như
đúc, nhưng trắng hồng và mái tóc lơ thơ trên chỏm trông
thật dễ thương. Nhi ôm con và nước mắt nóng hổi trào ra
ướt má. Có thể nào con nàng mồ côi cha từ thưở sơ sinh?
Nhi cay đắng trong lòng và cảm thấy chiến tranh nghiệt ngã
quá!
Tin
Ban Mê Thuột thất thủ tràn lan rất nhanh. Thị xã Đà Lạt
như lên cơn sốt. Khắp nơi người ta thăm hỏi nhau, tìm cách
biết tin tức người thân. Nhi như người chết dở khiến bà
mẹ phải an ủi suốt ngày. Nàng quên hết tất cả để
chỉ còn nhớ tới Thạch, không biết chàng sống chết ra
sao, và nếu còn sống chàng trôi giạt về đâu. Một buổi
chiều có lính gõ cửa, trao cho Nhi một mảnh giấy nhỏ. Nhi
mừng chết được, rõ ràng là nét chữ của Thạch. Thạch
vắn tắt cho nàng biết chàng đã thoát được ra khỏi vùng
lửa đạn, và bây giờ đơn vị của chàng đang cố thủ
thị trấn Pleiku.
Pleiku
bây giờ đang trong cơn hỗn loạn, thị trấn nhỏ bé này
một sớm một chiều bỗng nhiên trở thành tuyến đầu khói
lửa. Pleiku lúc này hừng hực cơn sốt chiến tranh, chắc không
còn cảnh:
Phố
núi cao,
Phố
núi đầy sương
Phố
núi cây xanh
Trời
thấp thật buồn
Và
Em
Pleiku
Má
đỏ môi hồng
Ở
đây buổi chiều
Quanh
năm mùa đông.
Vài
ngày sau, đang khi Nhi cho con bú thì Thạch đẩy cửa bước vào.
Người chàng cháy nắng và khét lẹt mùi thuốc súng. Thạch
ôm lấy vợ, lấy con, nước mắt chàng trào ra nóng hổi.
Lần đầu tiên Nhi thấy Thạch khóc. Nàng biết Thạch yêu nàng,
và yêu con ghê gớm. Thạch cho vợ biết Pleiku đã thất
thủ, đơn vị chàng hỗn loạn, tứ tán. Thạch cố thoát
khỏi vùng tử địa về đây. Nhi vừa mừng vừa lo. Mừng vì
Thạch thoát hiểm, nhưng lo vì không biết số phận Đà
Lạt sẽ ra sao, có thoát khỏi nanh vuốt tử thần hay cũng
chung số phận với Pleiku, Ban Mê Thuột!
Sự
thật còn tàn nhẫn hơn điều Nhi lo sợ! Không riêng gì Đà
Lạt mà cả nước lần lượt rơi vào tay kẻ thù. Nhi chết
điếng trong lòng. Nàng biết hy vọng được sống hạnh phúc
đơn giản bên chồng không bao giờ thành sự thật nữa!
?
Bố
Nhi và Thạch bị cưỡng bách trình diện học tập cải
tạo. Ngày chàng bước chân ra khỏi nhà, Nhi thấy cả tấm
màn đen kịt phủ xuống gia đình nhỏ bé của nàng. Đành
rằng theo thông báo, “các sĩ quan ngụy chỉ đi học tập có
ít tuần” nhưng người phụ nữ có trực giác bén nhạy
lắm. Nhi linh cảm thấy sự thật không đơn giản như vậy.
Nàng chưa hề có kinh nghiệm về cộng sản, nhưng nàng
biết kẻ thù không khoan dung, hiền lành như thế. Những con
người thâm hiểm ấy, khi nói chuyện đôi mắt luôn ngó dáo
dác hoặc cúi gầm mặt xuống. Nhi thấy không thể tin tưởng
được lời nói của những con người này.
Nhi
và mẹ nàng không có gì để tiễn bố Nhi và Thạch cả,
ngoài một túi quần áo cũ, ít lương khô và tiền lẻ. Và
hai người thân của nàng ra đi biền biệt. Một tháng, hai
tháng, rồi một năm, Thạch vẫn biệt vô âm tín. Nhi không
biết chồng đã bị đưa đi những đâu, trải qua những nhà
tù nào, chịu bao nhiêu nỗi nhục nhằn cay đắng, thân xác
bị hành hạ đến độ nào! Đêm đêm, Nhị quỳ cầu
nguyện xin Chúa thương chồng, thương con. Nàng không nghĩ đến
thân mình, chỉ lo cho chồng cho con. Con nàng lớn lên dần
dần trong cảnh đói khổ nhục nhằn. Nhi và mẹ tảo tần
buôn bán, tìm cách chui qua màng lưới công an khu vực, kiếm
chút tiền lo cho gia đình. Nhưng tất cả đều thiếu thốn
và rách nát. Hai người đàn bà, một già một trẻ, đành
rằng có trái tim đầy ắp tình yêu nhưng hoàn cảnh trước
kia không đào tạo họ thành những người đàn bà quán
xuyến.
Một
ngày, có giấy của phường gửi tới nhà Nhi báo cho biết
Thạch đang “được học tập cải tạo” tại Pleiku và chính
quyền cách mạng “luôn luôn nhân đạo và khoan hồng” cho
phép Nhi được đi thăm chồng trong dịp tết này.
Nhi
mừng quá khi được tin chồng còn sống. Chàng ra sao không
biết nhưng chàng còn sống đã là điều quá vui rồi. Nhi
mừng đến độ nàng quên cả hoàn cảnh thực tế là gia đình
không đủ tiền chi dùng trong nhà, lấy đâu tiền mua sắm
phẩm vật thăm nuôi Thạch.
Niềm
vui ban đầu qua đi, Nhi bắt đầu nghĩ đến thực tế. Và
lần đầu tiên Nhi biết thế nào là “lo toát mồ hôi”.
Nhi lo quá, tiền ở đâu để mua sắm cho Thạch, chẳng lẽ
đến với chàng bằng hai tay không! Đến lúc này nàng mới
hiểu có tình yêu không thôi chưa đủ, dù thích tiền hay không
thích tiền, người ta vẫn cần đến nó.
Buổi
chiều, Nhi ra ngoài vườn nhìn xuống thành phố. Mùa Xuân đã
về, anh đào đang kì nở rộ. Hoa hình như không biết thành
phố đổi chủ và lòng người đang héo hắt. Hoa vẫn tươi
thắm, vẫn xinh đẹp. Dù người dân Đà Lạt có tàn tạ
theo năm tháng thì núi đồi vẫn xanh, nước hồ Than Thở
vẫn biếc, hoa vườn Bích Câu vẫn thắm, và thành phố
vẫn nhuộm hồng mầu anh đào. Nhưng Nhi biết cảnh đẹp cũng
chẳng được bao lâu nữa dưới chế độ này! Nhi nhớ quá
những ngày Thạch và nàng ôm vai nhau, đứng ở đây nhìn
xuống thành phố, Thạch ví von rằng chàng yêu đôi má của
Nhi nên rất thích mầu hoa anh đào. Nhi cũng nhớ những cánh
hoa anh đào thật đẹp, mỗi mùa Xuân ngày trước Thạch
mang về trang hoàng phòng khách nhà nàng. Tình yêu của hai người
hình như mang mầu hồng của hoa anh đào. Nàng cũng nhớ đến
dư vị thơm ngát của chất rượu anh đào, đã làm nàng
ngất ngây trong đêm hoa chúc!
Nghĩ
đến thực tế, nước mắt Nhi như muốn trào ra. Nhưng nàng
cắn môi không khóc. Đây không phải là lúc khóc nữa, mà là
lúc tĩnh trí để tính chuyện. Nhi không muốn Thạch tủi thân
và sau đó là đói khát, thèm nhạt khi nàng đến thăm chàng
với hai tay không! Nàng nghĩ mãi, và cuối cùng nàng đã tìm
được giải pháp.
?
Buổi
chiều hôm đó, sau khi đã được một món tiền, chạy ra
chợ vào cửa hàng mua sắm các thứ cần thiết cho chồng,
Nhi về nhà, người mệt đừ, mắt hoa đầu váng. Nàng nằm
vật ra giường mẹ lúc nào không biết. Nhi tỉnh dậy khi
con nàng đói, khóc lên từng chập. Nàng thức giấc, mệt
nhọc xuống bếp gạn cho con ít nước cháo. Thằng bé ăn
xong, no bụng, nhoẻn miệng cười và đùa nghịch với
những ngón tay của mẹ nó. Chơi với con một lúc, Nhi để
con nằm một mình, đi lại phía bàn, nàng lật quyển nhật
ký ghi những dòng chữ cho chồng. Đã lâu quyển nhật ký
của nàng đã trở thành tập để viết thư cho Thạch,
những bức thư không bao giờ được gửi đi, nhưng Nhi
thấy cần phải viết, như một cách để thở than, sẻ chia,
tâm sự.
Anh
thân mến
Có
lẽ niềm vui lớn nhất trong đời em là được tin anh còn
sống và được phép đến thăm anh. Anh có bị hành hạ
nhiều không? Bọn họ đã làm gì anh, đã đày đọa anh đến
thế nào? Cố gắng và can đảm anh ạ. Chúng ta là những người
có niềm tin, chúng ta tin có Chúa và Ngài là ông bố nhân
từ đầy quyền năng, một ngày nào đó sẽ cứu thoát chúng
ta.
Em
nghèo, không có tiền mua quà cho anh, gia đình mình bây giờ
gian nan lắm, chắc anh cũng biết. Nhưng cuối cùng em cũng
xoay được một món tiền. Anh xem, em cũng mua được cho anh
đủ cả quần áo, thuốc men, lương khô và một đôi gà cho
anh nuôi lấy trứng. Em giỏi không anh? Khen em đi! Anh yên tâm,
em không làm điều gì tủi hổ, xấu xa để anh buồn đâu.
Để em kể cho anh nghe tại sao em có tiền nhé.
Cả
buổi chiều, em suy nghĩ hết cách, không tìm ra cách nào
kiếm tiền mua quà cho anh, em không có gì cả cho anh ngoài chính
bản thân em. Chính ý nghĩ đó khiến em nảy ra sáng kiến:
tại sao em không biến chính những gì của bản thân em làm
quà tặng anh. Anh ạ, em nghĩ đến chuyện bán máu, máu của
chính em, đang lưu chuyển trong thân thể em.
Ngày
xưa bố em làm ơn cho nhiều người, trong những người
chịu ơn bố có một y tá. Ong này được chính quyền mới
coi là người vô thưởng vô phạt, nhất là các bệnh viện
bây giờ đang cần những y công, nên ông được lưu dụng.
Hiện nay ông làm trong phòng hiến máu ở một bệnh viện
gần nhà mình. Gọi là hiến máu, thật ra là bán máu. Mỗi
người hiến máu được ăn một bữa cơm và tuỳ theo số
phân khối rút ra sẽ được trả một món tiền. Theo luật
thì chỉ được đến hiến máu bao nhiêu lần theo một tiêu
chuẩn nào đó mà em không rõ, nhưng những người nghèo
vẫn đến bán máu, và ông y công kia thông cảm làm ngơ cho.
Em
đến bệnh viện nối đuôi xếp hàng giữa một ngày có
nhiều gió lạnh. Trong hàng người rách rưới nghèo nàn ấy,
em nghe những lời trò chuyện, nào là ông kia máu rút ra trông
tím lịm, nào là cô nọ cũng vừa hiến máu xong ngã ra bất
tỉnh. Thú thật em cũng có sợ. Nhưng anh ơi, em có thể cho
anh tất cả thì tiếc gì vài chục phân khối máu!
Cuối
cùng cũng đến lượt em. Ông y tá nhận ra em
ngay. Ông ân cần hỏi thăm về bố, mẹ và gia cảnh nhà mình.
Em vắn tắt cho ông biết về những điều ông hỏi rồi vào
đề ngay, xin ông rút máu của em, càng nhiều càng tốt. Em
cần tiền để thăm nuôi anh. Ông nhìn em ái ngại và nói:
-
Theo tiêu chuẩn, cô không được phép hiến máu. Cô gầy và
xanh xao quá! Nhưng thôi, tôi cũng làm liều. Ngày xưa ông nhà
rất tốt với tôi. Trả ơn cách này tôi thấy không an lòng
chút nào. Lỡ cô có mệnh hệ gì, mai mốt tôi làm sao dám
nhìn ông nhà! Nhưng thôi, hoàn cảnh thế này, đành nhắm
mắt mà làm vậy.
Và
rồi sau những thủ tục giấy tờ, ông thận trọng trong
từng cử chỉ một, đưa mũi kim vào mạch máu em. Máu được
rút từ thân thể em vào ống-xi-lanh, đỏ thắm. Em hơi choáng
váng, nhưng bằng tất cả nghị lực, em giữ cho mình bình tĩnh.
Để quên đi sự choáng váng, em nhìn màu máu của mình. Màu
đỏ đẹp quá, em nghĩ đẹp hơn màu hoa anh đào mà chúng mình
ưa thích. Anh ơi! Mong rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào, cho
dù chúng ta có nghìn trùng xa cách, tình yêu của chúng mình
vẫn đẹp như màu hoa anh đào và tươi thắm như màu máu
của em. Máu em sẽ nuôi dưỡng anh trong đoạn đời khốn
khổ nhất. Máu của em biến thành quần áo cho anh mặc, lương
khô cho anh dùng, thuốc men cho anh uống, gà đẻ trứng cho
anh bổ dưỡng. Anh yêu dấu, em còn muốn dâng tặng anh
nhiều hơn thế nữa, nhưng hoàn cảnh khốn khổ của chúng
ta đã ràng buộc chúng ta nhiều quá!
Anh
cứ yên tâm, em sẽ phấn đấu! Nhi của anh, Nhi bé bỏng ngày
xưa bây giờ giỏi lắm. Nhi của anh biết lo cho mẹ, biết
nuôi con, biết kiếm tiền mua quà thăm nuôi anh. Với lại chúng
ta còn có Chúa, Chúa không bỏ chúng mình đâu. Máu lấy ra
rồi mai mốt Chúa lại cho máu khác. Rồi chúng ta một ngày
nào đó sẽ gặp nhau. Anh sẽ khoẻ mạnh oai hùng như ngày nào.
Và chúng ta còn có con trai nữa! Ngọc bây giờ xinh đẹp, kháu
khỉnh lắm anh ạ. Chúng ta nghèo, nhưng em vẫn lo cho con được
đầy đủ. Gia đình chúng ta sẽ hạnh phúc. Một ngày nào
đó Đà Lạt ấm nồng trong nắng; anh đào, loại hoa anh yêu,
nở rộ, và chúng ta sẽ đứng ở vườn sau nhà, trên đồi,
ngắm thành phố mặc áo hồng như ngày nào. Anh cứ tin điều
đó đi, anh nhé!
Em
yêu anh vô cùng!
Nhi
viết xong những trang giấy cho Thạch, nàng mệt quá. Đầu
óc choáng váng, mắt nàng hoa đi! Nhi gục xuống bàn, lịm
thiếp, trong khi trời rực sáng.
(1) Năm ngoái, hôm nay, cũng cửa này
Hoa
đào tô thắm má hây hây
Người
cũ về đâu nơi xứ lạ
Hoa
đào còn cợt gió Đông bay.
(QD.
thoát dịch)
Hoa Hồng Nhà Kín
Quyên Di