- Legio Mariae – Đạo Binh Đức Mẹ - https://daobinh.com -

Các Bài Suy Niệm về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa – Phần 2

Mục Lục:

Bài 15: Thương cho kẻ đói ăn, thương cho kẻ khát uống – Trang 1

Bài 16: Thương cho kẻ rách rưới ăn mặc – Trang 2 [1]

Bài 17: Thương viếng kẻ liệt – Trang 3 [2]

Bài 18: Thương viếng kẻ tù rạc – Trang 4 [3]

Bài 19: Thương chuộc kẻ làm tôi – Trang 5 [4]

Bài 20: Thương chôn xác kẻ chết – Trang 6 [5]

Bài 21: Tha thứ, thái độ căn bản của lòng thương xót – Trang 7 [6]

Bài 22: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” và giới răn yêu thương kẻ thù – Trang 8 [7]

Bài 23: Giáo Hội Công Giáo, Giáo Hội của lòng Chúa thương xót – Trang 9 [8]

Bài 24: Phê-rô trải nghiệm lòng thương xót – Trang 10 [9]

Bài 25: Mẹ Maria, người Mẹ của lòng thương xót – Trang 11 [10] 

Bài 26: Chúa là Mục Tử nhân lành hay thương xót – Trang 12 [11]

–oOo–

Bài 15:

Thương cho kẻ đói ăn, thương cho kẻ khát uống

Những hình thức thương và giúp đỡ thể xác người khác thì muôn hình vạn trạng. Chúa Giê-su tóm tắt tất cả trong một câu khuôn vàng thước ngọc nằm trong Bài Giảng Trên Núi: “Mọi điều các con muốn người ta làm cho mình, thì các con cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12). Như vậy, nếu tôi đói và muốn người ta cho tôi ăn, thì tôi hãy cho kẻ khác đang đói được ăn.

Nhớ lại thời gian còn là tập sinh, cha Giáo gởi tôi đến làm thực tập trong một trung tâm bác ái Công Giáo nằm trong nhà ga xe lửa của thành phố Munich, Đức Quốc. Một trong những công việc bác ái, là mỗi ngày chúng tôi nhận nhiều tấm bánh mì của các lò bánh mì xung quanh tặng. Sau đó, chúng ta tôi quét chút bơ, rắc chút muối trên từng miếng bánh và phân phát cho những người nghèo, cùng những khách bộ hành thiếu thốn ở trong nhà Ga. Công việc chẳng có gì đặc biệt và mệt nhọc, nhưng mỗi lần thấy những anh chị em nghèo khó đón nhận bánh mì với một ly nước trà nóng trong mùa đông lạnh lẽo, lòng tôi vui mừng lắm. Niềm vui đó mang chiều sâu, khi đọc lời của Chúa Giê-su: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống” (Mt 25,35). Chúa hiện thân trong chính người đói khát kia, và Chúa đang mong chờ những tấm bánh, những ly nước được trao ban. Ý thức được điều này, mà rất nhiều người đã hy sinh và dấn thân, để nâng đỡ biết bao người nghèo khổ không có của ăn. Khi học chuyên môn ở Paris, mỗi tuần một lần được đi làm việc tông đồ trong nhà dòng của các thầy Dòng Bác Ái theo tinh thần của Mẹ Tê-rê-sa Can-cút-ta. Được cùng với các thầy và các anh chị em giáo dân hy sinh thời gian, lo nấu những bữa ăn trưa cho những người nghèo khổ, và sau đó dọn bữa ăn và phục vụ cho khoảng 40 người vô gia cư từ khắp mọi nơi của Paris kéo về để cùng ăn, lòng xúc động biết bao. Sự xúc động về sự hy sinh và về tình bác ái thương xót của các thầy và nhiều anh chị em giáo dân. Sự xúc động về lòng thương xót của Thiên Chúa được tỏ hiện thật sống động dành cho những người bị bỏ rơi, những người vì nhiều lý do khác nhau đã rơi vào trong hoàn cảnh vô gia cư và mất tất cả: gia đình, nghề nghiệp, của cải, an toàn, tương lai… Nhưng dù họ mất tất cả, lòng thương xót của Thiên Chúa họ không bao giờ bị mất cả. Một nhà thần học đã nói: “Mọi sự sẽ qua đi, nhưng tình yêu Thiên Chúa mãi mãi tồn tại”.

Các thầy và anh chị em phục vụ những người vô gia cư này làm tôi nhớ lại bài Phúc Âm kể việc Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chúa đã lên tiếng với các môn đệ, khi các ông nói với Chúa hãy cho đám đông về các làng mạc để kiếm cái ăn, vì trời đã chiều: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16). Lời mạnh mẽ của Chúa giúp cho chúng ta ý thức để sống tinh thần bác ái và thương xót những người nghèo khổ thiếu của ăn. Thật là một Xì-căng-đan, nếu các Ki-tô hữu lắc đầu từ chối giúp đỡ những người đói khổ. Dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó trong Phúc Âm của Lu-ca là một lời cảnh báo đối với chúng ta. (x.Lc 16,19-31). Không có câu chuyện nào thê thảm hơn người phú hộ giàu có chỉ mong muốn được giải thoát khỏi sự khổ đau đời đời, sau khi đã sống một cuộc đời giàu sang với của cải vật chất, nhưng lại chẳng biết xót thương người đói khổ, chẳng màng tới một La-da-rô nghèo đói đang nằm ở trước cổng nhà ông ta: “La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta” (Lc 16,20-21). Đó là thái độ vô cảm của người phú hộ. Thái độ vô cảm và sự giàu sang đã làm cho đôi mắt của ông ta đui mù khi còn sống, để rồi dù thật hối hận ở đời sau, nhưng đã muộn rồi. Phải chăng ông ta đã tự chọn cho mình số phận như thế?

Bài học của người phú hộ keo kiệt và vô cảm là một bài học đắt giá đối với chúng ta, những người có niềm tin vào Chúa và sống trong lòng Giáo Hội. Mỗi năm ít nhất hai lần, Giáo Hội mời gọi chúng ta biết ý thức ăn chay, hãm mình và hy sinh phần nào bữa ăn và của cải, để hướng về những người đói khổ và chia sẻ với họ.[1] Đức Thánh Cha luôn luôn kêu gọi chúng ta trong các sứ điệp của Mùa Chay, cần biết ra khỏi mình và cái tôi ích kỷ của mình, để đến với người đói khổ và chia sẻ lương thực cho họ.

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu xin với Chúa Cha: “Xin cho chúng con lương thực hằng ngày”. Điều đặc biệt trong lời cầu nguyện này nằm ở chỗ: lời kinh của số nhiều (chúng con), chứ không phải lời kinh của số ít (con). Điều này có ý nghĩa gì?[2] Theo Hamman, điều đó muốn dạy ta phải cầu nguyện chung với những người thiếu thốn lương thực hằng ngày, cũng như phải cầu nguyện cho những người ấy. Đừng quên rằng phân nửa thế giới ở trong tình trạng kém dinh dưỡng. Lời cầu xin này vừa là lời cầu cứu Thiên Chúa, vừa là tiếng gọi những ai đang nắm giữ độc quyền của cải trần gian, vì Thiên Chúa ban cho của cải ấy là ban cho hết mọi người. Đó là lời nhắc nhở những người có của, những nước giàu rằng, họ chỉ là người quản lý của Thiên Chúa, họ phải chịu trách nhiệm phân phối của cải sao cho công bình… Khi cầu xin lương thực như thế, người Ki-tô hữu càng đi sâu vào tấn bi kịch của thế giới, càng đi sâu vào giữa lòng nhân loại hôm nay. Không phải để đổ lỗi cho người Ki-tô hữu, mà để động viên họ luôn ý thức nhận ra khuôn mặt của Đức Ki-tô, Người là Đấng có đủ mọi sự giàu sang mà lại chấp nhận trở nên nghèo nàn, Ngài đang hiện diện nơi anh chị em đói khổ.[3] Chính tinh thần yêu thương, đoàn kết và chia sẻ với những người nghèo khổ là nền tảng để chúng ta có thể sống lời cầu nguyện này trong Kinh Lạy Cha một cách cụ thể hơn. Bằng cách chia sẻ lương thực vật chất thiết yếu cho người thiếu thốn. Trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo có viết : “Nhưng sự tồn tại của những người đang đói cơm bánh cho thấy một chiều sâu khác của lời cầu xin này. Thảm kịch đói khát trên thế giới mời gọi các Ki-tô hữu đang cầu nguyện trong chân lý, phải có trách nhiệm hữu hiệu đối với các anh em, trong cách hành động cá nhân của họ cũng như trong sự liên đới của họ với gia đình nhân loại. Lời cầu xin này trong Kinh Lạy Cha không được tách biệt với các dụ ngôn anh Lazarô nghèo khó (x.Lc 16,19-31) và cuộc phán xét chung (x.Mt 25,31-46)”.[4]

Một hình ảnh khác thật hay nơi các em thiếu nhi học Giáo Lý rước lễ lần đầu ở một Giáo Xứ bên Đức mà tôi có thời gian được giúp. Khi học bài Giáo Lý về Bí Tích Thánh Thể, ngoài những ý nghĩa thiêng liêng, các em còn được hướng dẫn về ý nghĩa xã hội mang tính cách bác ái của Bí Tích Thánh Thể, và các em đã khám phá ra rằng: Mỗi em chính là tấm bánh cần được bẻ ra và chia sẻ cho người khác, đặc biệt cho những người đói khổ.

Tâm tình của các em bé thiếu nhi làm tôi nhớ lại câu chuyện của một người mẹ Công Giáo ở quê hương, mà một người quen đã kể. Câu chuyện kể về người mẹ này trong thời gian đói nghèo của quê hương vào năm 1945. Lúc đó người mẹ đã nhìn thấy bao con người nghèo khổ và đói rách từ miền quê lên Hà Nội, họ lang bạt khắp nơi, chỉ sao tìm được hạt gạo, chén cơm để lót cái dạ rỗng tuếch của mình. Đặt mình trong vị trí của họ và qua đó một cách thẳm sâu người mẹ đã hiểu được họ cần gì. Vì thế, một nồi bắp đã được bắt lên bếp. Bắp chín, mẹ cặm cụi ngồi gói từng cái bắp và lên đường ra đi. Lên đường, đó là một hành động cao cả một người mẹ. Những cái bắp trên rổ xe đạp của mẹ càng lúc càng vơi đi, khi mỗi lần mẹ dừng lại bên hè phố mà một người nghèo đói đang ngồi trông mong.

“Trông mong”. Đó chính là một động từ đi liền với hoàn cảnh của những anh chị em thiếu may mắn. Mẹ đã hiểu được cái ý nghĩa sâu xa của động từ này qua đôi mắt của bao người đau khổ trên quê hương và mẹ đã đáp lời. Cũng như dụ ngôn người Samaritanô tốt lành trong Phúc Âm được Chúa Giê-su kể sau lời kêu gọi: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi và người thân cận như chính mình ngươi”. Mẹ đã hiểu được người thân cận, người bên cạnh của mình là ai và làm thế nào để chia sẻ tình yêu cho họ. Vì thế, tình yêu với Chúa và với anh chị em thúc đẩy mẹ tiếp tục lên đường. Nồi to lại được bắt lên bếp. Giờ đây không phải là những cái bắp mà là những nắm gạo. Trong đôi tay của Mẹ  những nắm gạo được vo tới vo lui, và cuối cùng một nồi cháo nóng “xuất hiện” trong nhà mẹ, và đang chờ mọi người đói khổ. Bao người tuôn đến. Để tránh mọi người xô đẩy và để cho có trật tự, mẹ đã để nồi cháo trong hàng rào và từng người có thể đến để nhận một chén cháo lót dạ. Của cho và cách cho đã đi đôi với nhau. Đó là tiếng nói của trái tim. Trái tim đã khơi dậy không chỉ một nghĩa cử bác ái là móc ra một vài đồng bạc cho người khác, nhưng trái tim còn nói mình phải làm sao để đồng tiền cho đi vẫn giữ được tình thân và làm thăng tiến con người.

Điều này mẹ đã diễn tả rất cụ thể qua hành động rất cao quý: Trong số những người nghèo đến lấy cháo mỗi ngày, mẹ để ý thấy một em trai khoảng 10 tuổi ngày nào cũng đến xin cháo, nhưng không ăn ngay, em cẩn thận bưng bát cháo về hướng đầu đường. Mẹ cho chị bếp đi theo thì thấy một cảnh tượng rất thương tâm: em bé đó đưa chén cháo về cho người mẹ mới sinh đứa con nhỏ còn yếu không đi được. Em ngồi đó nhìn mẹ húp từng miếng cháo, mẹ em hỏi ăn chưa thì em nói ăn rồi. Chị bếp về nói lại cho người mẹ. Mẹ nghe vậy và gọi em bé đến. Bây giờ em bé phải ăn chén cháo khác. Bao tử em cần phải được no đầy như chính tâm hồn của em tràn đầy tình yêu thương. Sau đó, người mẹ còn lấy cho em một cái bánh bích-quy. Thật tuyệt vời. Đã bao giờ bé thơ nghèo khổ kia được hưởng một tình người dịu ngọt được cụ thể hóa trong cái bánh  bích-quy ngọt ngào. Cảm tạ Thượng Đế nhân từ biết bao, cám ơn tâm hồn của mẹ dịu ngọt dường nào! “Nhưng mỗi ngày chỉ lo cho em như vậy chưa đủ. Làm sao để giúp em lo được cho chính mình? Làm sao để giúp cho tâm hồn non trẻ nhưng đầy trách nhiệm kia thăng tiến và lo được cho người mẹ mới sinh còn đang yếu?”

Đó chính là nỗi suy tư của mẹ. Cái bánh bích-quy đi liền với cái hộp của nó. Nhưng bây giờ bánh bích-quy cần phải biến dạng. “Người bạn” của hộp bánh giờ đây là những hạt đậu phộng rang. Mẹ đã rang đậu phộng và đã cho em bé đi bán mỗi ngày. Một sáng kiến của trái tim. Thật tuyệt vời! Sau mỗi ngày em bé đi bán trở về, mẹ đã cùng em tính toán sổ sách. Mẹ lấy lại vốn và cho em tiền lời. Em bé đã đưa tiền lời đó về và mua gạo nấu cháo cho mẹ của em và cho em bé mới sinh. Và cứ vậy, ngày ngày em lại đến với người “mẹ nhân từ“ để nhận “tiền vốn – đậu phộng rang” và lại lên đường.

Tiền – tiền vốn – tiền lời. Đó là một khía cạnh rất thương mại. Nhưng dưới con mắt và bàn tay của mẹ chúng đã trở thành một điểm sáng: Tiền đã biến thành tình yêu, tiền vốn đã biến thành dấn thân và tiền lời đã trở thành hoa quả của lòng thương xót. Mong sao lòng xót thương tiếp tục nở hoa qua biết bao nhiều tấm lòng nhân ái, để nhờ đó biết bao người đói khát được no đầy, những người rách rưới được có cái mặc và những ai đau yếu được chăm sóc.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

[1] X. KEENAN J.F., SJ., The Works of Mercy, the heart of catholicism, t.27-28.

[2] X. NGUYỄN Ngọc Thế SJ, Lời Kinh Cha Mẹ dạy, t.100-104.

[3] X. HAMMAN A. G., Abrégé de la prière chrétienne, Desclée, Paris 1987, t.60.

[4] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, Bản tiếng Việt của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội 2009, số 2831, t.784.

>> Mục Lục [12]

Bài 16:

Thương cho kẻ rách rưới ăn mặc

Ở bên Đức, tại mỗi khu phố hay làng mạc đều để các thùng của hội Caritas. Mọi người đều có thể đưa quần áo và giày dép cũ không còn sử dụng vào thùng từ thiện đó. Hội Caritas sẽ chuyển tiếp cho những người nghèo ở các nước khó khăn. Có lần, nghe bà mẹ trong một gia đình nói rằng, trước khi chúng ta đưa quần áo đi để bỏ vào trong thùng từ thiện ấy, thì cần phải giặt sạch sẽ, gấp vào đàng hoàng, bỏ vào bịch và đưa tới thùng từ thiện. Một nét của văn minh tình thương và bác ái mà có lẽ mọi người ai cũng cần phải cố gắng để thực thi. Thật vậy, khi cho kẻ rách rưới ăn mặc là chúng ta đang tôn trọng phẩm giá cao quý của họ. Phẩm giá mà Thiên Chúa đã trao ban cho mọi người. Sách Sáng Thế nhắc tới hình ảnh của A-đam và E-và đã được Thiên Chúa trao ban áo mặc: “Đức Chúa là Thiên Chúa làm cho con người và vợ con người những chiếc áo bằng da và mặc cho họ” (St 3,21). Tội lỗi đã dẫn đến hình phạt, nhưng đồng hành với hình phạt là lòng thương xót của Thiên Chúa. Tội lỗi của A-đam và E-và không dẫn hai người tới cái chết, nhưng dẫn tới sự lưu đày. Khi hai ông bà bị lưu đày, thì cả hai được Thiên Chúa giàu lòng thương xót che chở qua chính chiếc áo Chúa đã làm ra và trao ban cho cả hai. Chiếc áo này che chở họ trước gió bão và bảo vệ họ trước những đe doạ hiểm nguy từ bên ngoài.[i] Ở đây, cũng nên nhắc lại tâm tình của Kasper, khi đuổi con người ra khỏi vườn địa đàng, Thiên Chúa đã ban cho con người áo quần mặc, để con người có thể tự che chở trước đe doạ của thiên nhiên, và che đậy sự xấu hổ của con người giữa nhau, cũng như gìn giữ phẩm giá của con người (x.St 3,21).[ii] Chiếc áo Thiên Chúa trao ban không chỉ che chở con người, mà chiếc áo đó còn mang ý nghĩa tôn trọng phẩm giá cao quý của con người. Con người có quyền được ăn no mặc ấm. Đó là điều mà mọi người ai cũng ao ước và vì thế chúng ta luôn cố gắng không chỉ lo cho mình được mặc ấm và mặc đẹp, mà còn hướng đến anh chị em nghèo khổ, để theo gương của Thiên Chúa từ nhân, trao tặng cho anh chị em rách rưới những chiếc áo che thân.

Câu chuyện của Thiên Chúa mặc áo cho A-đam và E-và cũng đang được sống động trong cuộc đời thực tế. Câu chuyện của một tu sĩ trẻ trên cánh đồng truyền giáo ở đất nước Lào nghèo nàn diễn tả một niềm vui sâu xa, niềm vui của người môn đệ đi tìm kiếm lại vẻ đẹp của Thiên Chúa trên những khuôn mặt nhỏ bé và nghèo hèn: “Câu chuyện về một chú bé mà em có dịp gặp khi đi thăm làng Navai ở Lào trong một ngày lạnh lẽo. Tụi em đã thấy một chú bé co ro vì không đủ ấm dưới một làn áo đơn sơ giữa thời tiết lạnh giá. Hai anh em tụi em thì được bọc dưới mấy lớp áo ấm mà vẫn thấy lạnh. Một trong hai tụi em đã cho chú bé ‘mượn’ một chiếc áo gió để em mặc cho bớt lạnh. Chú bé trả lại áo cho bọn em sau khi đã thấy ấm hơn. Không lâu sau đó khi có dịp thăm lại làng ấy tụi em đã tặng cho bé một chiếc áo ấm. Chú bé đã rất vui và hạnh phúc về điều ấy. Chú bé còn bày tỏ khao khát được học giáo lý và được rửa tội. Từ kinh nghiệm này mà tụi em đã khởi động chương trình áo ấm cho trẻ em trong hai làng Navai và Mương-phương, dù lúc ấy không có một đồng trong tay. Nhưng tạ ơn Chúa là lúc này tụi em không những có đủ số tiền cho chương trình này mà còn dư ra một ít nữa chứ!”.Chiếc áo ấm của lòng thương xót đã làm cho thân người nhỏ bé và nghèo khó ấm êm. Chiếc áo ấm đưa lại cho lòng người niềm vui đích thật. Niềm vui của em bé nghèo hèn lạnh lẽo được người môn đệ của Chúa thương xót và trân quý. Niềm vui này tương hớp với lời mời gọi của Chúa: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có” (Lc 3,11).

Câu chuyện của người tu sĩ này làm tôi nhớ lại câu chuyện nổi tiếng trong truyền thuyết về thánh Martin thành Tour. Chuyện kể rằng: Một đêm hoàn toàn đóng băng (có lẽ là trời mưa, hoặc tệ hơn là vẫn còn bông tuyết), Martin cưỡi trên lưng ngựa, khoác trên mình chiếc áo choàng màu đỏ rất ấm, khi ông đi đến các bức tường thành phố Amiens, Gaul (ở Pháp). Ở đó, ông phát hiện một người đàn ông nhỏ bé, ngồi trên mặt đất, co ro trong bộ quần áo mỏng manh rách rưới của mình. Người đàn ông muốn cầu xin ai đó giúp đỡ nhưng ông đã bị lạnh cóng, đôi môi dường như đông cứng lại với nhau. Đội quân của Hoàng đế đã đi qua và chỉ cười với ông ta, trước khi họ bước vào một trong các quán bar của thị trấn với những đồ ăn, thức uống và bếp lửa ấm áp. Bây giờ vận may của người ăn xin đã thay đổi, khi Martin rút kiếm cắt tấm áo choàng màu đỏ của mình thành hai mảnh, một nửa dành cho người đàn ông nghèo khổ. Đôi môi của người ăn xin dần dần bớt cóng lại, vì thế ông ta bắt đầu nói “cám ơn”, nhưng Martin đã đi trước đó bởi vì ông là người khiêm tốn và e thẹn. Đêm hôm sau, Martin kể lại, ông có một giấc mơ, dù không ai thực sự biết chắc chắn, bởi vì ông là người duy nhất ở đó, nhưng người ta nói ông mơ đã gặp lại người đàn ông nghèo đó một lần nữa và người ấy chính là Chúa Giê-su, Ngài muốn kiểm tra xem Martin có đúng thực là một người đàn ông tốt hay không. Như vậy, Ngài đã thực sự vui bởi vì Ngài đã nói với ông: “Những gì bạn đã làm cho người đàn ông nghèo này, chính là bạn đã làm cho tôi!”.

Lời cuối cùng của câu chuyện về thánh Martin đưa chúng ta về lại lời của Chúa Giê-su: “Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc” (Mt 25,36). Chúa Giê-su hiện diện trong những anh chị em đang rách rưới, đang trần truồng. Chúa và họ đang cần đến những chiếc áo của lòng nhân ái, để che chở bản thân trước những đe doạ của gió bão, để gìn giữ phẩm giá cao quý của con người. Phẩm giá này không bao giờ mất đi, dù con người có đón nhận những cơn bệnh đau đớn.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

[i] X. KEENAN J.F., SJ., The Works of Mercy, the heart of catholicism, t.51

[ii] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t. 52.

>> Mục Lục [12]

Bài 17: Thương viếng kẻ liệt

Qua Phúc Âm của Thánh Gio-an người ta vẫn nói, phép lạ đầu tiên Chúa làm là phép lạ ở tiệc cưới tại Ca-na, nhưng nếu đọc Phúc Âm nhất lãm, chúng ta thấy rằng, Lu-ca và Mác-cô đều nêu phép lạ đầu tiên Chúa Giê-su làm là phép lạ chữa lành người bị quỷ ám và chữa lành nhạc mẫu của ông Phê-rô (x.Mc 1,21-31 và Lc 4,31-39). Còn Mát-thêu lần đầu tiên nhắc đến việc Chúa làm phép lạ qua câu: “Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân” (4,23). Nếu chúng ta đọc lại bốn Tin Mừng, thì Chúa Giê-su luôn chú ý đến những người bệnh và Ngài sẵn sàng nâng đỡ và chữa lành cho họ. Qua đó, Chúa Giê-su được coi là người thầy thuốc tốt lành. Đối với các tông đồ, Chúa Giê-su cũng mong muốn các ông sống tinh thần viếng kẻ liệt, chữa lành người đau yếu.

“Nhóm Mười Hai được sai đi để chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1). Chữa lành là một chiều kích quan trọng của sứ mạng tông đồ và Đức Tin Ki-tô giáo nói chung. Eugen Biser còn đi xa hơn khi gọi Ki-tô giáo là “tôn giáo chữa bệnh”, một tôn giáo chữa lành. Một cách nào đó, điều này diễn đạt nội dung của “cứu độ”…. Trong những phép lạ chữa lành do Chúa và nhóm Mười Hai thực hiện, Thiên Chúa bày tỏ quyền năng nhân từ của Người trên thế gian. Những phép lạ này là “những dấu chỉ” thực thụ hướng đến chính Thiên Chúa, và giúp đưa con người vào trong chuyển động hướng tới Thiên Chúa.[1]

Cùng với Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài, tín hữu được mời gọi chú ý đến những người đau yếu, những bệnh nhân đang cần đến sự quan tâm và yêu thương không chỉ của Thầy Thuốc, Bác Sĩ và Y Tá, mà còn cần đến những người xung quanh, nhất là những người gần gũi trong gia đình, họ hàng, làng xóm…Trên hết, tinh thần viếng thăm và chú ý đến người đau yếu được Chúa Giê-su nhắc nhớ chúng ta, vì chính Chúa đang hiện diện sống động trong những người đau yếu. Nói khác đi, họ chính là hiện thân của Chúa Giê-su: Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng” (Mt 25,36). Khi thánh Rôsa thành Lima bị mẹ trách vì đã đem những kẻ nghèo, những bệnh nhân vào nhà, thánh nữ trả lời: “Khi chúng ta phục vụ người nghèo và người bệnh, là chúng ta phục vụ chính Chúa Giê-su. Chúng ta không được lơ là trong việc giúp đỡ tha nhân, vì chúng ta phục vụ Chúa Giê-su trong anh em”.[2]

Nhưng thăm viếng bệnh nhân như thế nào? Ở đây, không bàn đến khía cạnh chuyên môn trong lãnh vực y tế với cách chữa bệnh và cách giao tiếp với bệnh nhân, nhưng xin được có cái nhìn đơn sơ qua chính hình ảnh của Chúa Giê-su. Đọc lại câu chuyện Chúa Giê-su với mẹ vợ của Si-môn (thánh Phê-rô) trong Phúc Âm thánh Mác-cô với ba câu ngắn gọn: “Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài” (Mc 1,29-31). Câu chuyện nói rằng, ngay lúc Chúa đến thì mẹ vợ của Si-môn đang ngã bệnh. Ở đây, Mác-cô diễn tả rằng, lập tức người ta nói cho Chúa biết tình trạng của bà đang bị bệnh nằm trên giường, không thể dậy để đón tiếp Chúa và mọi người được. Chúa Giê-su đã phản ứng thế nào? Chúa có nghe lời của người ta nói về tình trạng đau yếu của mẹ vợ Si-môn đang bệnh không? Mác-cô nói tiếp, Chúa lại gần bà. Thái độ lại gần của Chúa chứng minh điều, Chúa đã nghe rất rõ lời người ta nói, và Ngài còn nghe bằng trái tim cảm thông và yêu thương. Vì thế, trái tim lắng nghe đã thúc đẩy Chúa lại gần, Chúa cất bước đến với người đau yếu, và lại gần họ. Người bệnh rất nhạy cảm với thái độ và cách hành xử của người thăm viếng. Đến thăm người bệnh mà ở xa xa để nhìn thì việc viếng thăm đó chỉ mang chút xã giao bên ngoài, chỉ là một ánh mắt nhìn đến với một chút tội nghiệp, nhưng trái tim thì chưa rung động thật sự, chưa mang một giao động của tình yêu. Chúa đã đến gần bà mẹ vợ của Si-môn, và tại giường bà, Chúa đã đưa tay ra cầm lấy tay bà. Người bệnh luôn cảm thấy một sự cảm thông, một sự ủi an, khi được người thăm viếng nắm lấy đôi tay. Một cuộc gặp gỡ thật sự của thân xác tràn đầy ủi an, cảm thông và nâng đỡ. Khi cầm lấy tay bà, Chúa đã đỡ bà dậy. Lòng nhân từ và quyền năng của Chúa đang vực con người yếu đau dậy. Lòng nhân từ và quyền năng của Chúa không bao giờ muốn con người cứ thế mà nằm trên giường, do bởi cơn bệnh nặng đang chế ngự. Con người đau yếu và tội lỗi cần được tiếp tục đứng dậy. Đức Ki-tô, Đấng mặc lấy thân phận của con người, chính Ngài sẽ vượt qua sự chết để trỗi dậy mãi mãi, sẽ làm cho con người được trỗi dậy với Ngài.

Trở về với hình ảnh người ta nói với Chúa về người bệnh, và Chúa đã lắng nghe. Đó là một điều thật căn bản cho việc thăm viếng bệnh nhân. Trong những trường hợp đó, người bệnh ao ước được lắng nghe, được thấu hiểu và được cảm thông. Trong căn bản, người bệnh luôn tìm sự ủi an qua việc người khác lắng nghe họ: “Xin hãy lắng nghe lời tôi nói, và như thế đã là yên ủi tôi” (Gióp 21,2).[3] Ngược lại, đi thăm người bệnh mà chỉ nói về chuyện của mình, hơn nữa lại còn ngồi lê mách lẻo với bệnh nhân chuyện của người khác, thì chỉ làm cho người bệnh thêm mệt. Như thế, thì việc thăm viếng đó đánh mất đi hoàn toàn ý nghĩa và giá trị của nó. Vì thế, khi đi thăm viếng người bệnh và đau yếu, cần phải ra khỏi chính mình, và ra khỏi chính tính tình và thói quen tiêu cực của bản thân, để mở lòng ra với người bệnh, để chú ý hoàn toàn đến họ, để cho họ có được một chỗ trong tâm hồn, trong ngôi nhà của mình. Lắng nghe, nghĩa là để cho người khác hiện diện. Lắng nghe người bệnh là đón nhận họ, dọn cho họ một chỗ và không bao giờ lấy mất đi không gian của họ. Lắng nghe với trái tim cảm thông là thái độ ủi an sâu thẳm đối với người bệnh và yếu đau. Đôi khi chỉ cần lặng thinh, nắm tay người bệnh và nhìn họ với tấm lòng cảm thông tràn đầy yêu thương, thì đã đưa lại món quà cao quý cho người bệnh rồi. Đừng vội nói. Cần chấm dứt thói quen nói cho đã. Người ta không thể đồng hành với người bệnh, nếu người ta không bước vào trường học lắng nghe.[4] Cũng thế, người ta không thể cảm thông được với người tù tội, nếu không thinh lặng lắng nghe họ, lắng nghe với trái tim yêu thương.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

[1] X. RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.212-214.

[2] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2449.

[3] X. MANICARDI L., trong BIANCHI E., L’ accompagnement des Malades, Édetions Parole et Silence, Genève 2003,  t.67-68.

[4] X. MANICARDI L., trong BIANCHI E., L’ accompagnement des Malades, t.68-70.

>> Mục Lục [12]

Bài 18: Thương viếng kẻ tù rạc

Giữa mùa Đông giá rét ở Tây Phương và cũng là dịp tết Nguyên Đán của mọi người Việt da vàng, mùng hai tết âm lịch chúng tôi khăn gói bánh chưng, hạt dưa, các loại mứt và kẹo, lư hương và những bó nhang, cả những câu lộc đầu năm, và lên đường vào một nhà tù để thăm một số anh em. Sau một số thủ tục cần làm, chúng tôi được phép đưa những thứ đồ được chuẩn bị vào trong khuôn viên nhà tù, và được dẫn vào trong một phòng hội. Chúng tôi vội vàng chuẩn bị bàn thờ tổ tiên, xếp bàn ghế và đặt bánh chưng cùng mọi thứ lên bàn. Khoảng 20 phút sau, các tù nhân – những anh em đồng hương đến, có những tù nhân còn đưa tới cả xôi, chả giò, chè và bánh ngọt…Dù hơi hồi hộp, nhưng tay bắt mặt mừng, chúng tôi chào đón nhau và chúc nhau câu chúc đầu xuân. Khi tất cả gần 50 tù nhân tề tựu, chúng tôi bắt đầu buổi Tân Niên với những hương vị của quê hương ngay trong những song sắt ở quê người. Sau khi tâm tình những câu chuyện đầu xuân, chúng tôi cùng nhau hướng về bàn thờ tổ tiên để tưởng nhớ, và theo làn khói của những cây nhang, chúng tôi hướng nhìn lên cao và xin Trời Phật phù hộ cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và anh chị em cùng những người thân của mình. “Công Cha như núi Thái Sơn, Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Câu ca dao của quê mình hôm nay đã đến với quê người, đã vào cả pháo đài ngục thất, để bao trái tim Việt Nam, dù nghèo hay giàu, dù tốt lành hay có tội, vào những ngày đầu năm vẫn chân thành nhìn về Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ và gia đình dấu yêu. Những trái tim yêu thương đã hội ngộ. Khi tình yêu đến thì tất cả tội lỗi bị xóa tan, để lòng người rạo rực đón mùa xuân mới. Một mùa xuân đem lại thời gian của hồng phúc, thời gian của niềm vui. Sau đó, chúng tôi cùng đọc Kinh Lạy Cha. Hồi hộp biết bao, vì trong số tù nhân chỉ có một hoặc hai người là Công Giáo. Sau khi làm dấu Thánh Giá, chúng tôi cùng đọc lời kinh mà Chúa Giê-su đã dạy, trong sự tôn trọng của các tù nhân khác tôn giáo qua sự yên lặng của họ. Tôi thầm cầu nguyện với Cha trên trời cho tất cả các anh em có được sức khoẻ, bình an và ơn can đảm, cùng những ân sủng mà họ cần đến trong thời gian ở trong ngục tù này.

Sau đó, chúng tôi lại tiếp tục chia sẻ niềm vui ngày tết với những bài hát và câu hò ngày đầu xuân. Trong số gần 50 khuôn mặt thanh niên đang ngồi ở đây, tôi thấy có một anh khoảng ngoài 30 tuổi có một thái độ rất lạ lẫm. Mỗi lần ai vừa hát xong một bài giúp vui, thì tất cả đều cười tươi và khen lấy khen để, còn khuôn mặt anh ta bộc lộ một nét buồn, và anh như vẫn muốn ở lại trong vỏ ốc của mình. Thấy thế, tôi đổi ghế và đến gần, ngồi xuống đối diện anh. Chào anh và anh chào lại. Anh mời miếng bánh ngọt. Tôi cám ơn và ăn thật ngon miệng. Hỏi ra, thì biết bánh ngọt này do anh tự làm lấy. Miếng bánh ngọt ngon lành trong miệng như muốn nói với tôi rằng: “Sau này, nếu được tự do anh này có thể mở tiệm bánh ngọt được rồi!” Tôi khen anh làm bánh rất ngon. Anh mỉm cười và cám ơn. Câu chuyện đầu xuân của chúng tôi bắt đầu từ cái bánh ngọt này đây. Sau đó, hỏi anh về đời sống trong tù thế nào. Anh bắt đầu kể cho tôi nghe những sinh hoạt thường ngày. Buổi sáng anh dậy sớm, ăn sáng và sau đó quản giám đưa anh đi làm. Sau công việc ở nhà bếp, anh ăn trưa cùng vài người bạn và cả buổi chiều anh có giờ rảnh rỗi. Vì vậy, để đốt thời gian và để đỡ phải nghĩ ngợi lung tung, anh đã quyết định tập tạ, tập fitness đều đặn. Nên anh là một tù nhân rất đô con và khỏe mạnh. Nhưng anh sẽ đốt thời gian cho đến khi nào? Anh kể rằng anh là người tù chung thân. Đã ở tù được 7 năm rồi. Trước đây là người khác đạo, từ ngày lấy vợ anh trở thành người Công Giáo. Vợ chồng anh có một con. Nhưng bây giờ, vợ đã ly dị với anh và lấy chồng khác. Còn đứa con thì đã mấy năm rồi anh chẳng nhìn thấy mặt. Nghe anh kể mà tôi thấy lòng mình buồn làm sao ấy. Còn nguyên nhân làm anh trở thành người tù chung thân, tôi không dám hỏi và cũng không nên hỏi làm gì. Sau đó anh cũng tiết lộ rằng, anh còn mẹ và hai em gái ở quê nhà. Đó là những người thân duy nhất đón nhận anh với quá khứ của anh. Anh vẫn được phép viết thư thường xuyên mỗi tháng về nhà cho mẹ và hai em. Đáp lại, em gái anh cứ ba tuần một lần viết cho anh một lá thư. Anh kể tới đây tôi thấy nơi anh một sự nghẹn ngào chan chứa niềm vui về tình mẹ dành cho mình, tình huynh đệ anh có với em. Những mối tình gia đình này không chỉ chấp nhận và quên đi quá khứ của anh, mà hiện tại còn giữ anh lại với cuộc sống, đem đến cho anh niềm hy vọng, và thúc đẩy anh ý thức sống vươn lên cho ngày mai. Thật quý báu biết bao! Dù thế nào đi nữa, những hồng phúc và niềm vui vẫn còn hiện diện và sống động nơi chính người tù chung thân này. Khi đã kể đôi chút về đời mình, anh hỏi tôi về đời sống của của tôi. Tôi kể anh nghe chút về những bước tôi đi trên đất khách quê người, những vất vả, những âu lo và cả những cố gắng vươn lên để sống trong công việc và học hành. Trên đường tôi đi, Chúa và nhiều người đã dẫn dắt và giúp đỡ tôi, để ngày hôm nay Chúa làm tôi trở thành một người Linh mục cho Chúa, cho Giáo Hội và cho mọi người.

Khi đã trò chuyện với nhau, chúng tôi tò mò hỏi tuổi nhau và khám phá ra một điều là, chúng tôi cùng một tuổi. Nhưng đến đây thì anh nói tiếp: “Con và cha cùng tuổi, nhưng đường đời của mỗi người ở đất khách quê người này lại khác. Hôm nay, con thì như vầy, còn cha thì được như thế”. Tôi nghe mà chẳng biết phải đáp lời thế nào, chỉ biết nói với anh rằng: “Dù thế nào, thì điều quan trọng là anh và tôi luôn có khao khát để sống vươn lên. Đó là một trong những điều căn bản cho cuộc đời”. Anh nhìn tôi và mỉm cười. Sức sống vươn lên của anh và của tôi thật cần thiết biết bao. Sức sống đó tôi đọc được nơi anh qua những cố gắng làm lại cuộc đời của mình trong tù, qua việc chăm sóc chính thân xác và tinh thần mình, qua việc gìn giữ và phát triển tình mẫu tử và tình đệ huynh, qua chính cái bánh ngọt anh làm để đãi anh em bạn tù đồng hương và đãi cả chúng tôi. Cái bánh ngọt ngon miệng của anh làm không chỉ đưa lại cho chúng tôi niềm vui của mùa xuân mới, mà đó còn chính là hồng phúc anh trao cho chúng tôi. Khi chia tay ra về, tôi đã chân thành cám ơn anh và thật chân tình tôi nói với anh rằng, tôi sẽ cầu nguyện đặc biệt cho anh. Tôi hy vọng một ngày nào đó, với thiện chí vươn lên, anh sẽ đón nhận được lòng nhân hậu, và mong sao chúng tôi sẽ gặp nhau bên ngoài ngục thất, để cùng chia một miếng bánh ngọt của Thiên Chúa, của tình người với nhau. Trải nghiệm này thật quý báu biết bao cho hành trình tông đồ của người môn đệ đơn hèn theo Chúa. Ngày xưa Chúa Giê-su đã tuyên bố, Ngài đến để không chỉ rao truyền một năm hồng ân, thời gian của hồng phúc, mà Ngài còn loan báo cho người nghèo một Tin Mừng, một tin vui của mùa xuân mới, và giải thoát người tù nhân ra khỏi gông cùm. Thật vậy, người tù nhân dù tội lỗi có là gì thì vẫn luôn mong ngóng một điều: được giải thoát.

Chữ tù luôn đi đôi với cụm từ mất tự do. Thánh Giáo Hoàng Gio-an XXIII đã rất vui mừng khi thăm viếng nhà tù lớn Regina Coeli tại Ý vào ngày lễ thánh Stephano, 26 tháng 12 năm 1958, năm đầu tiên trong triều đại Giáo Hoàng. Ngài nói với các tù nhân rằng: “Các con không thể đến với cha, vì thế cha đến với các con… Do đó, cha ở đây, cha đã đến đây và đã thấy các con; cha chăm chú nhìn vào ánh mắt các con, cha đặt trái tim cha gần trái tim các con. Trong lá thư đầu tiên mà các con viết cho gia đình, các con phải viết về niềm vui, về sự hiện diện của cha với các con và cha hứa cầu nguyện cho gia đình các con”. Lời của ngài tỏ lộ cho thế giới thấy rằng, nhiều khi xã hội có khuynh hướng xem tù nhân là một người bị gạt sang bên lề xã hội hay một con người bị kết án vì cảm xúc hay hành vi của họ. Bằng chứng cho thấy sự gần gũi của ngài với các tù nhân được thể hiện qua việc, trước khi rời nhà tù, ngài đã muốn ở lại giữa các tù nhân. Một bằng chứng thế kỷ đã thuật lại rằng, “trong khi đang ra khỏi cửa nhà tù, Đức Gio-an XXIII thấy một người tách ra khỏi nhóm đang vây quanh bàn thờ. Nhìn ngài với ánh mắt đẫm lệ, người này cúi xuống và hỏi: Những lời hy vọng của ngài có dành cho tôi không, tôi là một kẻ tội lỗi? Đức Thánh Cha không đáp lại, ngài cúi xuống, nắm tay ông và ôm ông vào lòng thật chặt”.

Các tờ nhật báo trong nước viết rằng, với sự kiện này, “Đức Gio-an XXIII đã làm rung chuyển các bức tường của nhà tù Regina Coeli. Người ta không nói về bầu khí tiêu biểu của nhà tù nữa”. Các tờ nhật báo quốc tế, trong đó có tờ Daily Express, đã định nghĩa Đức Gio-an XXIII là “Đức Giáo Hoàng hiện đại”. Một tờ nhật báo Anh quốc đã cho rằng, Đức Gio-an XXIII đang chứng minh rằng, ngài là vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội có cái nhìn rộng mở. Bằng cách thăm viếng các nhà tù tại Roma, Đức Thánh Cha đã khôi phục lại truyền thống bị chôn vùi gần một thể kỷ”. Trong thực tế có một biến cố khiến ngài rất đau lòng đó là ngài không được phép thăm 300 tù nhân, những người bị nhốt trong những phòng giam biệt lập vì bị xem là những tù nhân nguy hiểm. Vì thế, Đức Thánh Cha đã gởi cho mỗi người một ảnh nhỏ với sự bảo đảm rằng ngài không quên “những người con vô hình” (những người ngài không được gặp họ).[1]

Sự kiện đặc biệt này đã được ghi lại qua một tác phẩm nghệ thuật của Giacomo Manzú khắc trên một cánh cửa của đền thờ Thánh Phê-rô ở Roma, diễn tả hình ảnh Đức Gio-an XIII trong bức hình điêu khắc đưa tay qua song sắt của nhà tù, bắt lấy tay của các tù nhân và gọi họ là anh em.[2] Các tù nhân dù đã mất tự do, họ vẫn là anh em, họ vẫn mang một phẩm giá cao quý làm người. Dù quá khứ của họ có nhuốm màu tội lỗi nào đi nữa, thì phẩm giá của họ vẫn thế, vì mọi sự qua đi nhưng tình yêu của Chúa làm nên phẩm giá con người vẫn luôn tồn tại. Một vị Mục Tử khác của Giáo Hội – Đức Thánh Cha Phanxicô, đã làm mọi người ngạc nhiên, khi ngài không cử hành nghi thức Phụng Vụ của ngày Thứ Năm Tuần Thánh (28.3.2013) tại Latran – theo phong tục của Giám Mục thành Roma, cũng không ở trong đền thánh Phê-rô, mà Đức Phanxicô lại vào trong nhà nguyện của trại giam giữ trẻ vị thành niên Casal del Marmo, phía bắc của Roma, và cử hành nghi thức ở đó. Trong nhà nguyện của ngục tù, ngài đã cử hành nghi lễ rửa chân và đã quỳ xuống bằng hai đầu gối trước mười hai tù nhân trẻ. Với tất cả sự trân quý các tù nhân trẻ tuổi, Đức Thánh Cha rửa chân và hôn chân họ. Trong số họ, có hai cô gái trẻ và một trong hai cô gái là người Hồi Giáo. Ngài cũng ôm hôn họ khi trao chúc bình an. Trong bài giảng ứng khẩu đơn sơ và ngắn gọn, Đức Phanxicô nói: “Thật là một cử chỉ cảm động. Chúa Giê-su rửa chân cho các môn đệ. Phê-rô không hiểu gì và từ khước. Nhưng Chúa Giê-su giải thích cho ông. Chúa Giê-su là Thiên Chúa mà làm điều đó! Và chính Ngài giải thích cho các môn đệ: ‘Các con có hiểu điều Thầy làm cho các con không? Các con gọi Thầy là Thầy và là Chúa, và các con nói đúng, vì Thầy là như vậy. Vậy nếu là Thầy và là Chúa mà Thầy rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng làm như Thầy đã làm’. Đó là gương của Chúa: Ngài là người quan trọng nhất mà rửa chân, thì người nào cao trọng nhất trong chúng ta phải phục vụ người khác. Đó là một biểu tượng, một dấu hiệu. Rửa chân có nghĩa là ‘tôi là người phục vụ cho anh’. Và cả chúng ta, không phải là chúng ta phải rửa chân mỗi ngày cho nhau sao? Nhưng điều ấy có nghĩa là gì? Có nghĩa là chúng ta phải giúp đỡ nhau. Nhiều khi ta bực mình với người khác, nhưng hãy bỏ qua, và nếu người khác xin bạn giúp, thì hãy làm. Hãy giúp đỡ nhau: đó là điều Chúa Giê-su dạy chúng ta và đó là điều tôi làm, và tôi làm hết lòng, vì đó là bổn phận của tôi. Trong tư cách là Linh mục và như là Giám Mục, tôi phải phục vụ các bạn. Nhưng đó là một nghĩa cử đến với tôi từ trái tim: tôi yêu mến điều đó và tôi làm vì Chúa đã dạy tôi làm. Và cả các bạn: hãy giúp đỡ nhau, khi làm như thế, chúng ta làm điều thiện. Bây giờ chúng ta cử hành nghi thức rửa chân, và chúng ta nghĩ, mỗi người chúng ta nghĩ: Tôi có thực sự sẵn sàng, phục vụ, giúp đỡ người khác hay không? Chúng ta hãy nghĩ điều đó thôi. Chúng ta hãy nghĩ rằng dấu hiệu này là một sự âu yếm Chúa Giê-su đã làm, vì Chúa Giê-su đã đến để làm điều đó, để phục vụ và để giúp đỡ chúng ta”.

Cùng với bà Mary, một người phụ nữ Công Giáo, chúng tôi được phép đến thăm một trại tù. Trước khi đến nhà tù, bỗng chợt bà Mary dừng xe. Bà nói rằng, bà muốn xuống mua một vài thẻ nạp điện thoại. Đến cổng nhà tù, đợi một lát và sau khi hoàn tất các thủ tục cần thiết, bà lái xe đưa chúng tôi vào tận bên trong, và đậu xe trong bãi dành cho các nhân viên ở đây. Dù bà chẳng phải là nhân viên của trại tù, nhưng vì tấm lòng và bản chất tốt lành cũng như sự khôn ngoan của bà, nên nhà tù đã cho phép bà đưa xe vào tận bên trong. Đưa xe vào bên trong, không chỉ để tiện đi lại, mà còn tiện để khuân đồ nữa. Mấy thùng mì gói, bánh kẹo và cả vài giỏ quà cáp cho các cai tù được đưa vào phòng đợi. Sau 20 phút ngồi đợi, chúng tôi thấy bóng giáng của những tù nhân đang được các cai tù dẫn ra từ phòng giam. Tay họ bị còng, họ phải xếp hàng dọc, hai tay để trên vai người phía trước và cứ thế từ từ bước vào phòng thăm. Hơn hai mươi chàng thanh niên người Việt bước vào phòng, chúng tôi chào thăm họ. Trong phòng có một vài cái ghế, và cũng có một hàng ghế, nhưng các cai tù bắt tất cả các tù nhân phải ngồi bệt xuống đất. Bà Mary nói tiếng Anh hỏi thăm anh em. Có anh em bà đã gặp trong lần thăm trước, nhưng có một số mới bị bắt vào. Tội trạng thì có gì lớn lao đâu. Một số là ngư phủ lạc vào hải phận của đất nước sở tại, bị cảnh sát biên phòng bắt và bị nhốt ở đây chờ ngày bị trục xuất về quê hương xứ sở. Có người thì cư ngụ bất hợp pháp không giấy tờ, cũng bị bắt và chờ ngày bị trục xuất.

Chữ tù luôn đi đôi với cụm từ mất tự do. Anh em tù nhân ở đây bị mất tất cả, mất cả tự do căn bản cần có là tự do liên lạc về với gia đình người thân ở quê hương. Hiểu được hoàn cảnh của anh em, bà Mary mỗi lần đến thăm đều chuẩn bị một số điện thoại để gọi ra nước ngoài với giá rẻ. Bà lấy ra hai cái điện thoại mới nạp tiền trước đó, và hỏi anh em nào muốn liên lạc về với người thân. Tất cả đều giơ tay. Điện thoại được truyền từ người này sang người khác. Chiếc điện thoại của tình người, chiếc điện thoại nối tình thân, chiếc điện thoại đưa lại những giây phút tự do, để có thể liên lạc với gia đình ở quê hương. Thật quý và giá trị biết bao chiếc điện thoại, khi cha mẹ, vợ con ở quê hương xa xôi được nghe giọng nói của con, của chồng, và hiểu được hoàn cảnh hiện nay của họ. Ngồi ngắm nhìn anh em gọi điện thoại, lòng xúc động biết bao. Sự xúc động hoà với những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt của các tù nhân. Những giọt nước mắt không chỉ diễn tả tình cảm của con người, mà còn như muốn nói lên lòng khao khát của anh em được thả ra khỏi chốn ngục tù, mà chẳng ai muốn chọn nơi đó làm chốn nương thân. Tiếng Anh không biết, tiếng địa phương cũng mù tịt, nên anh em được bà Mary nâng đỡ để đối thoại với các nhân viên trại giam và giúp họ làm giấy tờ, để họ có thể mau chóng được hồi hương. Hơn nữa, bà Mary còn giúp họ tìm mua vé máy bay với giá rẻ nhất có thể, để khi có giấy tờ, họ được thả ra và có thể về lại nhà gặp cha mẹ, gặp vợ và con cái. Lòng tốt của người phụ nữ Công Giáo này vượt trên mọi biên giới, không chỉ với người tù nhân Việt, mà với các tù nhân từ Miến Điện và từ những nước nghèo nàn khác. Tình yêu của Thiên Chúa không bao giờ biết đến giới hạn, không bao giờ chấp nhận biên giới mà con người đã vẽ ra trên quả địa cầu nhỏ bé này. Lòng tốt của người phụ nữ Công Giáo tốt lành này đã ghi dấu trong nhiều cuộc đời của các tù nhân. Một vài tù nhân kể rằng, trên tường của ngục thất, một số anh em tù nhân trước đây giờ đã hồi hương, ghi lại tên của bà Mary và số điện thoại của bà cùng lời khuyên cho những tù nhân đến sau: Hãy liên lạc với mẹ Mary với số diện thoại này…, mẹ sẽ giúp đỡ.

Trước khi rời khỏi trại tù, bà Mary còn vội vàng lấy ra mấy thùng mì gói và một số bánh kẹo và tặng cho anh em tù nhân. Thức ăn trong tù đã thiếu, mà giờ đây còn được ăn một gói mì thì thật là tuyệt biết bao. Lời cuối cùng trước khi tạm biệt anh em là lời Kinh Lạy Cha. Bà Mary lên tiếng và xin anh em cùng cầu nguyện với bà lời kinh mà Chúa Giê-su đã dạy. Lời Kinh Lạy Cha bằng tiếng Anh vang lên trên môi miệng bà, chúng tôi một vài người Công Giáo Việt Nam đọc nhẩm bằng tiếng Việt yêu thương. Lời kinh đó vang lên ngay trong trại tù, giữa những anh chị em khác tôn giáo. Lời kinh này được gởi đến Cha trên trời, Cha của mọi người không kể sắc tộc và màu da, không màng tới hoàn cảnh hạnh phúc hay đau thương. Cha trên trời, Đấng giàu lòng xót thương luôn nhìn đến những người con yêu dấu của Ngài – những tù nhân bất hạnh. Lòng tốt của người phụ nữ Công Giáo tốt lành này đã làm tôi nhớ lời của Thánh Phao-lô nhắn nhủ: “Anh em hãy nhớ đến các người bị xiềng xích, chẳng khác gì anh em cũng bị xiềng xích với họ” (Dt 13,3).

Chào tạm biệt anh em, lòng chúng tôi bịn rịn. Cái bịn rịn của yêu thương và của mong ước anh em mau chóng được thả ra, để về lại với người thân đang mong chờ anh em. Trên xe, bà Mary cho chúng tôi xem con chim được đan bằng những dây nhựa. Bà nói, các tù nhân đã đan và tặng cho tôi. Chú chim đong đưa trên chùm chìa khoá xe của bà như đang nói rằng, tự do tung cánh trong bầu trời cuộc đời là quyền căn bản của con người. Tự do đó cần được chăm sóc, gìn giữ và bảo vệ. Tự do đó cần được chuộc lại, như bà Mary đã và đang tiếp tục làm cho anh em tù nhân.

Chữ tù luôn đi đôi với cụm từ mất tự do, nhưng chữ tù không bao giờ giam hãm được lòng thương xót và nhân ái. Lòng thương xót luôn viếng thăm, ủi an, nâng đỡ và tìm cách chuộc lại tự do cho người tù rạc. Đó chính là tinh thần của Đức Ki-tô, Đấng đang hiện diện sống động trong các tù nhân, như chính Chúa đã nói: “Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,36).

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

[1] Nguồn: dongten.net. Nguyễn Minh Triệu SJ chuyển ngữ từ Radio Vaticana.

[2] X. KEENAN J.F., SJ., The Works of Mercy, the heart of catholicism, t.16-17.

>> Mục Lục [12]

Bài 19: Thương chuộc kẻ làm tôi

Khi còn nhỏ đọc lời này trong kinh thương người có mười bốn mối, tôi không hiểu được ý nghĩa của nó. Đến khi trưởng thành tôi hiểu ra ý nghĩa của tình trạng nô lệ đã được viết trong cuốn sách lịch sử nhân loại như thế nào. Chế độ nô lệ là chế độ mà trong đó con người được xem như một thứ hàng hóa để trao đổi và buôn bán. Nô lệ là người bị bắt buộc phải làm việc không lương cho người chủ, bị mất quyền con người, mất tự do và cuộc sống phụ thuộc hoàn toàn vào người chủ. Nhiều người trở thành nô lệ, vì bị bắt sau những cuộc chiến (hình thức tù binh), hoặc những cuộc càn quét của lực lượng xâm lăng hoặc của giai cấp thống trị. Một số khi sinh ra đã bị coi như là nô lệ, chỉ vì cha mẹ của họ là nô lệ. Trong lịch sử nhân loại, chế độ nô lệ đã được công nhận bởi hầu hết các quốc gia và xã hội. Hôm nay, chế độ nô lệ theo pháp luật quốc tế đã bị cấm đoán và coi như không còn nữa. Nhưng nhìn vào thế giới và xã hội hiện đại xung quanh, thì lời kinhthương chuộc kẻ làm tôi vẫn còn mang giá trị tròn đầy, bởi vì có biết bao nhiêu người đang trở thành những nô lệ trong hình thức mới rất tàn bạo và rất tinh vi. Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày hoà bình thế giới năm 2015 đã diễn tả nhiều bộ mặt nô lệ hôm qua và hôm nay như sau: “Từ thời xa xưa, các xã hội khác nhau đã biết đến hiện tượng người thống trị người. Đã từng có những giai đoạn trong lịch sử nhân loại, nơi đó cơ cấu nô lệ được chấp nhận cách rộng rãi và được luật pháp ghi nhận. Điều này quy định những ai được sinh ra tự do và những ai sinh ra là nô lệ, cũng như những điều kiện mà qua đó một người vốn sinh ra là tự do nhưng có thể bị mất đi quyền tự do của mình hay có lại nó. Nói cách khác, chính luật pháp cũng thừa nhận rằng một số người nào đó có thể hay phải bị xem là tài sản của người khác…; một nô lệ có thể bị mua bán, chuyển giao hay mua được, như thể họ là một món hàng thương mại. Ngày nay, với sự phát triển tích cực của ý thức con người, nạn nô lệ, vốn được xem như là một tội ác chống lại nhân loại, đã chính thức bị xóa bỏ trên toàn thế giới. Quyền của mỗi người không được bị xem là nô lệ hay phụ thuộc như nô lệ được thừa nhận trong luật quốc tế như là một điều khoản bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, bất chấp cộng đồng quốc tế đã ký kết rất nhiều hiệp ước nhắm tới việc chấm dứt nạn nô lệ dưới nhiều hình thức, và đã khởi động nhiều chiến dịch khác nhau để chống lại nạn này, hàng triệu người ngày nay – trẻ em, đàn ông và đàn bà đủ mọi lứa tuổi – vẫn bị trút bỏ quyền tự do và bị buộc phải sống trong những điều kiện giống như các nô lệ”.[1]

Theo thống kê của tổ chức Walk Free Foaundation được viết trong The global Slavery Index 2014, ước tính hiện nay có khoảng 35,8 triệu người trên khắp thế giới hiện đang sống cuộc sống như một “nô lệ thời hiện đại”.[2] Về những người bị coi là nô lệ thời hiện đại, Đức Phanxicô, trong sứ điệp nhân ngày hoà bình năm 2015, nhắc đến nhiều lao động nam và nữ, cả những người trẻ tuổi, bị nô dịch hóa trong nhiều khu vực khác nhau, dù là chính thức hay không chính thức, từ công việc trong nhà cho đến việc nông nghiệp, từ các nhà máy công nghiệp đến hầm mỏ, tại nhiều nước những quy định về lao động không khớp với những quy định và chuẩn mực quốc tế tối thiểu, hay thậm chí là phi pháp, khi trong hệ thống pháp luật của mình, không hề có những quy định nào bảo vệ quyền lợi của người lao động. Tiếp đến, Đức Phanxicô cũng hướng tới nhiều người tị nạn, mà trong cuộc phiêu lưu đầy bi kịch đã phải chịu đói khát, đã bị tước bỏ tự do, bị cướp mất của cải hay bị lạm dụng thể lý và tính dục. Trong số ấy, có những người đến được nơi cần đến sau hành trình mệt rã rời với đầy những sợ hãi và không an toàn, thì lại bị giam giữ trong những điều kiện hết sức tàn nhẫn. Ngoài ra, vị cha chung cũng hướng đến những người bị buộc phải đi vào con đường mại dâm, nhiều người trong số họ còn rất nhỏ, nạn nô lệ và nô lệ tình dục;  Đức Phanxicô cũng hướng đến những phụ nữ bị buộc phải kết hôn, những người bị bán trong những vụ kết hôn được sắp xếp, hay những phụ nữ khi chồng chết thì bị chuyển cho một người thân của chồng như tài sản thừa kế, mà không cần biết cô ta có đồng ý hay không. Nhóm người khác mà Đức Thánh Cha hướng tới là những người lớn cũng như trẻ em. Họ là đối tượng của nạn buôn bán cơ phậnbị bắt nhập ngũ,  để xin ăn, để phục vụ cho những hoạt động phi pháp như sản xuất và buôn bán ma túy, hay để phục vụ cho những hình thức trá hình của việc nhận con nuôi mang tính quốc tế. Cuối cùng, Đức Phanxicô nghĩ đến tất cả những ai bị bắt cóc và bị giam giữ bởi những nhóm khủng bố, bị nô dịch hóa cho những mục đích của họ như là những chiến binh, hay trên hết trong những trường hợp các thiếu nữ và phụ nữ, bị sử dụng như là những nô lệ tình dục. Nhiều người trong số này đã biến mất, trong khi những người khác thì bị bán vài lần, bị tra tấn và bị hành hạ hay bị giết.[3]

Trong The global Slavery Index 2014, chúng ta đọc được một vài trải nghiệm như sau: “Khi tôi 13 tuổi, ba tôi đã gả tôi cho một người đàn ông 45 tuổi, người đàn ông này đã hứa trả một số tiền cho gia đình tôi để được lấy tôi làm vợ. Tôi không có hạnh phúc với ông ta, nhưng tôi vẫn phải cam chịu sống với ông ta một năm, trước khi tôi trốn về lại nhà của mình. Ba tôi đã rất giận dữ khi tôi trốn về nhà. Ông đã đánh đập và hăm doạ tôi, bắt tôi trở về lại với người chồng của tôi; nhưng không có roi đòn nặng nề nào của ba tôi tồi tệ bằng việc tôi phải sống với chồng tôi. Khi tôi từ chối trở về với chồng, ba tôi đã đào một cái hố sâu. Ông bắt tôi phải nhảy xuống đó, và ông bắt đầu muốn chôn sống tôi. Tôi hoàn toàn kinh ngạc, khi ông thực sự chôn sống tôi, nếu như người hàng xóm không nghe tiếng cầu cứu của tôi và ngăn chặn ông lại”.[4] Đó là câu chuyện của Shahida, 13 tuổi, là nạn nhân của một việc cưỡng bức hôn nhân. Một chia sẻ khác của Moulkeheir: “Tôi lớn lên và làm việc cho một gia đình. Tôi sinh ra và được đưa vào gia đình này – nơi mà mẹ tôi đã làm việc trước tôi. Công việc rất nặng nhọc. Tôi đã phải đi ra ngoài để chăn đàn dê suốt cả ngày, và khi về thì lại phải lo mọi công việc trong nhà. Tôi không có đủ cơm ăn. Tôi thường xuyên bị đánh đập và bị xúc phạm. Tôi có con cái. Chúng lớn lên và cũng làm việc cho gia đình này. Hai đứa con gái của tôi là kết quả của việc hãm hiếp của người con trưởng trong gia đình ông chủ. Anh ta đã nói rằng, anh ta sẽ chặt đầu tôi, nếu tôi nói cho bất cứ ai biết anh chính là tác giả của việc ấy”.[5]Một nạn nhân khác của nô lệ thời hiện đại kể lại rằng: “Đến ngày hôm nay, tôi không nhớ là từ khi nào nữa tôi đã ngủ chung với súc vật như với bò và dê… Giống như chúng, tôi cũng thật nghèo. Nhưng các con vật thì không bị đánh đập mỗi ngày, còn tôi thì bị”. Ker là tên của nạn nhân. Ker thường xuyên bị hành hạ tra tấn và đã bị mù loà bởi ông chủ của mình. Ker giờ đây là một thiếu niên, và năm ngoái đã được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ, nhưng mẹ của anh ta, một nạn nhân khủng khiếp của bạo lực, vẫn còn sống trong hoàn cảnh cũ”.[6] Đó là một vài chia sẻ điển hình của nô lệ thời hiện đại, mà xã hội chúng ta đang phải đương đầu. Gốc rễ của nạn nô lệ này xuất phát từ quan niệm con người cho phép đối xử với nhau như một đồ vật. Khi nào tội lỗi phá hỏng trái tim con người và làm ngăn cách chúng ta với Tạo Hóa cũng như với tha nhân, thì tha thân không còn được xem là những hữu thể có cùng phẩm giá, như là anh chị em cùng chia sẻ nhân tính, nhưng là những đồ vật. Được tạo ra giống Thiên Chúa và theo hình ảnh Thiên Chúa, nhưng bằng sự cưỡng bức, sự lừa dối, hay bằng những ép buộc về thể lý hay tâm lý, con người đã bị tước đoạt sự tự do của mình, bị bán và bị giảm thiểu xuống thành hàng hóa của một số người; bị đối xử như là phương tiện chứ không phải như cùng đích.

Cùng với nguyên nhân mang tính hữu thể học này – việc loại trừ nhân tính của người khác -, cũng còn có những nguyên nhân khác giúp giải thích những hình thức nô lệ tân thời, như sự nghèo khổ, việc chậm phát triển và sự loại trừ, đặc biệt là khi nó cùng tồn tại với việc thiếu đi nguồn đào tạo hay với một thực tại được đánh dấu bởi sự khan hiếm, nếu không muốn nói là không có, những cơ hội có việc làm. Nạn hối lộ những ai sẵn sàng bất cứ làm việc gì, để họ làm giàu cho bản thần, cũng là một nguyên nhân khác của nạn nô lệ. Thực ra, những người thực hiện việc nô dịch và buôn bán người thường phải mua chuộc cả một hệ thống trung gian phức tạp, một số thành viên của lực lượng cầm quyền hay các viên chức hay các thể chế dân sự và quân đội. Điều này xảy đến khi nằm ở vị trí trung tâm của hệ thống kinh tế là tiền bạc, chứ không phải là con người. Vâng, ở vị trí trung tâm của hệ thống kinh tế hay xã hội phải là con người, hình ảnh Thiên Chúa, được dựng nên để làm bá chủ vũ hoàn. Khi con người bị đồng tiền thay thế, các giá trị sẽ bị đảo lộn. Những nguyên nhân khác của nạn nô lệ là những xung đột vũ trang, bạo lực, hoạt động tội phạm và khủng bố. Nhiều người đã bị bắt cóc để đem bán, bắt đi chiến đấu như binh lính, hay bị khai thác tình dục, trong khi những người khác thì buộc phải đi tị nạn, bỏ lại mọi thứ đàng sau tất cả những gì họ có: đất nước, nhà cửa, của cải và thậm chí là các thành viên trong gia đình mình.[7]

Trước thực trạng nô lệ thời hiện đại đem lại nhiều đau buồn này, chúng ta cần phải có những hành động nào? Lời cầu kinh thương chuộc kẻ làm tôi thật vẫn còn giá trị trong thời đại văn minh và tân tiến của internet và của truyền thông. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người, mọi chính quyền ở các quốc gia, mọi tổ chức liên chính phủ, mọi cơ sở thương mại, mọi tổ chức tôn giáo và tổ chức xã hội cùng dấn thân để xoá bỏ nạn nô lệ. Phần Giáo Hội Công Giáo, thì “trong việc ‘loan báo chân lý tình yêu của Đức Ki-tô trong xã hội’, Giáo Hội luôn dấn thân không ngừng trong các hoạt động bác ái xuất phát từ chân lý về con người. Giáo Hội có nhiệm vụ phải phơi bày ra mọi con đường dẫn đến việc hoán cải, cho phép chúng ta thay đổi cái nhìn về những người thân cận của mình, để nhận ra nơi những người khác ấy, dù là ai, người anh chị em trong một gia đình nhân loại, và để thừa nhận phẩm giá bẩm sinh của họ trong chân lý và tự do, như câu chuyện của Josephine Bakhita soi sáng cho chúng ta. Đây là vị thánh xuất thân từ vùng Darfur của Sudan, người đã bị bắt cóc bởi những người buôn bán nô lệ và bị bán cho những ông chủ tàn ác khi thánh nhân chỉ mới 9 tuổi, và sau đó, từ chính những kinh nghiệm đau thương này, thánh nhân đã trở nên một ‘ái nữ tự do của Thiên Chúa’, nhờ Đức Tin sống trong sự hiến dâng sốt sắng và trong sự phục vụ người khác, đặc biệt là những người thấp bé và bất lực nhất. Vị thánh này, người đã sống giữa thế kỷ 19 và 20, ngày nay vẫn có thể trở thành một mẫu gương điển hình của niềm hy vọng cho nhiều nạn nhân của nạn nô lệ; ngài có thể nâng đỡ cho những nỗ lực của những ai dấn thân trong cuộc đấu tranh chống lại ‘vết thương trên thân mình của nhân loại đương thời, một vết thương trên thân xác của Đức Ki-tô’. Dưới viễn tượng này, tôi muốn mời gọi mỗi người, theo vai trò và trách nhiệm riêng của mình, hãy thực thi hành vi huynh đệ đối với những ai đang bị giam giữ trong tình trạng nô dịch…Vì thế, tôi khẩn thiết nài xin tất cả anh chị em thiện chí, và tất cả những ai dù xa hay gần, bao gồm những cấp độ cao nhất của các thể chế dân sự, những ai chứng kiến nỗi đau của nạn nô lệ tân thời, đừng thỏa hiệp với sự dữ này, đừng quay mặt đi trước những nỗi đau của anh chị em mình, của đồng loại mình, những người đã bị tước đoạt tự do và nhân phẩm, nhưng hãy có dũng lực để đụng đến thân thể đau đớn của Đức Ki-tô, được biểu lộ nơi khuôn mặt của vô số những con người mà chính Ngài gọi là ‘những người anh em bé mọn của Ta’ (x.Mt 25,40.45)”.[8]

Tương hợp với tinh thần dấn thân để giải thoát những nô lệ thời hiện đại mà Đức Phanxicô kêu gọi, cũng như theo tinh thần sống thực thi lòng thương xót nhân hậu của Chúa, chúng ta thấy thời Giáo Hội tiên khởi thánh Phao-lô đã xin cộng sự viên của mình là ông Philemôn đón nhận Ki-tô hữu mới là Onesimus trở nên người anh em của ông, dù trước kia Onesimus là nô lệ của Philemon; và hôm nay chúng ta cũng thấy các nữ tu đứng trong tuyến đầu của của việc dấn thân để cứu thoát biết bao nhiêu nạn nhân của nô lệ thời hiện đại. Nữ tu Sharmi D’Souza đến từ Ấn Độ đã kể về công việc hỗ trợ cho các nạn nhân và truy tố những kẻ buôn người. Nữ tu Sharmi cho biết, các nữ tu cùng với cảnh sát truy lùng tận bên trong các nhà thổ và giải cứu các cô gái. Ví dụ trong một cuộc đột kích, Sơ đã giải cứu được 37 cô gái, trong đó 11 cô là gái mại dâm tuổi vị thành niên. Từ những cô gái này, họ đã tìm hiểu tất cả các tình tiết về những kẻ buôn người là ai và nơi chúng làm việc, và sau đó đã tống được 30 kẻ buôn bán người vào tù. Sơ Sharmi cũng kêu gọi cho các giám mục, linh mục và mục sư sát cánh cùng các nữ tu, để giúp đỡ họ nhổ tận gốc những kẻ buôn bán người trên khắp thế giới.[9] Mong sao, mọi người trên thế giới đều ý thức rằng, trong mắt Thiên Chúa, mỗi con người là một người tự do, dù đó là con gái hay con trai, phụ nữ hay đàn ông, và được tạo dựng vì thiện ích của mọi người trong sự bình đẳng và tình huynh đệ.[10]Mong sao, thế giới này không còn tình trạng nô lệ nữa, và mọi người đều là anh em với nhau, và tất cả đều có một Cha giàu lòng thương xót ở trên trời.

Nguyện xin Thiên Chúa xót thương làm “mọi sự trở nên mới” (x.Kh 21,5), và xin cứu vãn các tương quan giữa con người chúng con, bao gồm cả tương quan giữa nô lệ và ông chủ, bằng cách làm sáng tỏ những điều mà cả hai bên đều có chung: cùng được nhận làm con của Cha, và cùng sống trong tình huynh đệ với Đức Ki-tô, Đấng đã trở nên nghèo nàn, mặc lấy thân phận phàm nhân, thân phận nô lệ, để cứu rỗi chúng con, những người sống như nô lệ của tội lỗi, của bóng đêm và của sự dữ. Xin cho chúng con thấu hiểu và thấm nhuần tình yêu của Chúa, và xin cho chúng con luôn gắn bó và kết hiệp mật thiết với Chúa trong cuộc sống, Đấng đã nói với chúng con: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15).[11]

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

[1] ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 3. Bản tiếng Việt của Pr. Lê Hoàng Nam SJ., nguồn: dongten.net.

[2] The global Slavery Index 2014, t.6, nguồn: www.globalslaveryindex.org

[3] X. ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 3.

[4] The global Slavery Index 2014, t.33.

[5] The global Slavery Index 2014, t.69.

[6] The global Slavery Index 2014, t.69.

[7] X. ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 4.

[8] ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 6.

[9] X. Các nữ tu chống lại hình thức nô lệ mới, bài của Hoàng Minh, nguồn: http://www.chuacuuthe.com.

[10] X. Tuyên bố của các nhà lãnh đạo tôn giáo đòi hỏi xóa bỏ chế độ nô lệ, nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/

[11] X. ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 2.

>> Mục Lục [12]

Bài 20: Thương chôn xác kẻ chết

Đứng trước một người vừa nhắm mắt ra đi, chúng ta mới thấy rằng cái chết là một huyền nhiệm.[1] Sự huyền nhiệm của cái chết có thể được nhìn qua hai điều: Với cái chết của người khác chúng ta thấy rằng, người nhắm mắt ra đi bước vào một con đường mà trên đó anh ta phải đi một mình. Dù chúng ta có nắm lấy tay người chết với tất cả tình yêu thương và dịu dàng của chúng ta, thì chúng ta cũng không thể nào chia sẻ con đường này của người vừa ra đi. “Quả thật, có một đêm đen không âm thanh nào vươn tới được, có một cánh cửa mà ta chỉ có thể bước qua một mình, đó là cánh cửa của sự chết. Mọi nỗi sợ trên trần gian rốt cuộc cũng chỉ là nỗi sợ cô đơn đó”.[2] Vì thế, chúng ta cần phải trân trọng huyền nhiệm của sự chết nơi mỗi một con người. Có người trong cuộc sống trần thế đã có một đời dễ dàng và hạnh phúc, nhưng cũng có người đã phải vượt qua biết bao nhiêu thử thách và đã phải chiến đấu rất nhiều trong cuộc sống. Dù thế nào, khi họ nằm xuống, chúng ta phải trân trọng họ, trân trọng cuộc đời và trân trọng sự chết của họ.

Với cái chết của bản thân chúng ta, còn mang nhiều ý nghĩa hơn nữa. Chúng ta không biết khi nào chúng ta sẽ nằm xuống và chúng ta sẽ chết như thế nào. Sẽ chết như thế nào, điều này vượt ra ngoài phạm vi con người của chúng ta. Trong sách Gương Chúa Giê-su, còn được gọi là sách Gương Phúc, một cuốn sách mà Mẹ của tôi đã đọc trong cuộc đời, và khi qua đời đã để lại cho tôi, ở chương 23 – Gẫm về sự chết, có đoạn viết rằng: “Nếu có bao giờ bạn chứng kiến một người từ trần, hãy nhớ rằng, bạn cũng phải đi qua con đường đó. Buổi sáng hãy nhớ rằng có thể bạn không còn sống đến buổi chiều, và khi tối đến đừng dám chắc bạn sẽ sống đến bình minh. Do đó, hãy luôn sẵn sàng và sống như thể cái chết không bao giờ đến với bạn mà không chuẩn bị. Nhiều người chết thình lình và không ngờ, vì vào lúc bất ngờ Con Thiên Chúa sẽ đến”.[3] Ratzinger cũng đã đặt câu hỏi về sự chết, nhưng cũng xin đầu hàng không thể đưa lại câu trả lời: “Thực ra chết là gì? Điều gì xảy ra khi một người chết đi, nghĩa là bước vào cõi chết? Phải nhìn nhận rằng, chúng ta tất cả đều bối rối trước câu hỏi đó. Hẳn không ai trả lời được, bởi vì chúng ta còn đang sống, chưa có kinh nghiệm về cái chết”.[4]

Với cái chết, con người đánh mất đi tất cả: cuộc sống tương quan và cuộc sống tình cảm, những việc làm dở dang, những kế hoạch hay dự án đang ở trên bàn, cả những giấc mơ đang có. Chỉ còn có mỗi một điều là người nằm xuống trao phó linh hồn của mình cho Chúa Cha ở trên trời, như chính Đức Ki-tô đã làm: “Phần con, con đến cùng Cha” (Ga 17,11), và“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Karl Rahner đã suy niệm lời này như sau: “Đối với những ai đã yêu thế gian và trở nên một với thế gian này, thì thật là kinh khủng đối với họ, khi họ rơi vào bàn tay của Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn kêu lên lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nếu có một lời nào đáng để tin, thì chình là lời này. Lời mà Chúa đã thốt lên trong giây phút đạt tới đích điểm. Có một Thiên Chúa là Cha. Trong tay Ngài người ta có thể phó thác tất cả mọi sự. Mọi sự. Thật vậy, mọi sự đều được đón nhận”.[5] Còn với Đức Benedicto XVI thì: “Những lời nói của Chúa Giê-su, sau khi cầu khẩn ‘Lạy Cha’, tiếp tục một diễn tả của Thánh Vịnh 31: ‘Con xin phó linh hồn Con trong tay Cha’ (Tv 31,6). Tuy nhiên, những lời này không phải là một câu trưng dẫn đơn giản, nhưng thay vào đó, biểu lộ một quyết định vững chắc: Chúa Giê-su phó Mình cho Chúa Cha trong một hành động hoàn toàn phó thác. Những lời này là một lời cầu nguyện ‘trao phó’, hoàn toàn tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su trước cái chết là một điều bi thảm, cũng như với mọi người, nhưng cùng một lúc, được tràn ngập bởi sự bình thản thẳm sâu đến từ lòng tín thác vào Chúa Cha, và ý muốn hiến thân hoàn toàn cho Ngài trong vườn Cây Dầu, khi Người bước vào cuộc chiến đấu cuối cùng, cùng cầu nguyện mãnh liệt, và sắp sửa ‘bị nộp vào tay người ta’ (Lc 9,44), mồ hôi của Người đã trở thành ‘như những giọt máu rơi xuống đất’ (Lc 22,44). Nhưng trái tim của Người hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, và ‘một thiên sứ từ trời’ đã đến để an ủi Người (x.Lc 22,42-43). Bây giờ, trong những giây phút cuối cùng của Người, Chúa Giê-su đã thưa cùng Chúa Cha rằng Người phó thác trọn cuộc đời Người trong tay Chúa Cha”.[6]

Là tín hữu, chúng ta cũng được mời gọi tập sống như Chúa Giê-su trong những giây phút cuối cùng của cuộc sống, chúng ta cần tín thác hoàn toàn vào trong bày tay nhân hiền của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót. Chính Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta vượt qua cái chết, để bước vào đời sống mới trên Nước Thiên Đàng. Ngoài ra, chúng ta cũng phải tin tưởng hoàn toàn vào Chúa Giê-su, Đấng đã vượt qua sự chết, vượt qua nỗi cô đơn tột cùng của đêm đen, để sống lại và mở ra cho chúng ta một cánh cửa mới, cứu thoát chúng ta ra khỏi đêm đen của cái chết: “Đức Ki-tô đã vượt qua ngưỡng cửa cô đơn cuối cùng của nhân loại; qua cuộc khổ nạn của Ngài, Ngài đã bước xuống tận vực thẳm của thân phận bị ruồng rẫy. Nơi đâu chúng ta chẳng còn nghe được âm thanh nào vọng tới nữa, thì nơi đó có Ngài. Như vậy, có nghĩa là địa ngục đã bị đánh bại, hay đúng hơn cái chết không còn phải là địa ngục nữa. Cả hai giờ đây không còn giống như trước nữa, vì sự sống hiện diện ngay giữa lòng sự chết, tình yêu cư ngụ ngày trong bóng tối tử thần…Chết không còn dẫn vào cô đơn giá buốt, cánh cửa địa ngục nay đã mở toang…Cánh cửa sự chết mở toang, vì trong sự chết này có sự sống: có tình yêu cư ngụ”.[7] Như thế, trong niềm tin vào Chúa Ki-tô, chúng ta tin rằng, sự chết dù đến khi nào và diễn ra thế nào, thì sự chết vẫn không phải là điểm kết của tín hữu: “Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Ki-tô đã không trỗi dậy” (1Cr 15,13).

Niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh đem lại cho chúng ta niềm hy vọng về sự sống vĩnh cửu. Chúng ta được phép hy vọng vào điều đó, vì Thiên Chúa khi dựng nên chúng ta, Ngài biết tên chúng ta, Ngài ghi khắc từng người chúng ta vào trong bàn tay của Người: “Này Cha đã ghi khắc con trong lòng bàn tay Cha” (Is 49,16). Tên của chúng ta không bao giờ bị phai nhoà, vì Chúa đã viết tên chúng ta không bằng những giọt mực dễ phai, mà Ngài viết bằng chính tình yêu thương. Mà tình yêu thì không bao giờ mất được. Hơn nữa, Chúa không chỉ viết, chỉ ghi, mà còn khắc tên chúng ta nữa. Khi cho chúng ta bước vào cuộc sống ở trần gian này, Thiên Chúa khắc sâu từng người chúng ta trong trái tim yêu thương của Ngài, và khi chúng ta đi ngang qua cái chết để trở về với Chúa, thì tên của chúng ta đã được Ngài khắc trên tấm bảng của sự sống vĩnh cửu. Rahner đã xác tín đời sống vĩnh cửu của con người cách sâu sắc: “Thánh Kinh không hề biết đến bất cứ đời sống con người nào lại quá tầm thường, đến nỗi con người không có giá trị đủ để trở thành vĩnh cửu, và đó là sự lạc quan cao cả của Thánh Kinh. Không có gì quá nhiều đối với Thánh Kinh. Vì mỗi người được Thiên Chúa gọi với tên của mình, và vì mỗi người hiện hữu trong thời gian và trước sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng phát xét và cứu độ, nên mỗi người là một con người của vĩnh cửu chứ không chỉ những thần linh cao cả của lịch sử. Hơn thế nữa, trong thần học Gio-an điều đó trở nên rõ ràng hơn, khi tính vĩnh cửu ấy đang hiện hữu trong thời gian, và vì thế vĩnh cửu vượt trên thời gian, chứ không phải là một phần thưởng được ban cho sau thời gian và thêm vào cho thời gian. Thánh Kinh mô tả nội dung đời sống vinh phúc của người chết bằng cả ngàn hình ảnh: Như yên nghỉ và bình an, như bữa tiệc và vinh quang, như sống trong nhà Cha, như vương quốc vĩnh cửu của Vương Triều Thiên Chúa, như cộng đoàn của mọi người đã đạt đến viên mãn vinh phúc, như thừa hưởng vinh quang Thiên Chúa, như một ngày không bao giờ có tận cùng, và như sự thoả mãn không buồn tẻ. Xuyên suốt mọi lời trong Thánh Kinh, ta luôn luôn ước đoán cùng một điều duy nhất: Thiên Chúa là mầu nhiệm tuyệt đối. Và do đó, sự viên mãn và gần gũi tuyệt đối với chính Thiên Chúa cũng là một mầu nhiệm khôn tả, mà ta phải gặp và người quá cố chết đi trong Đức Chúa lại tìm thấy, như sách Khải Huyền nói. Đó là mầu nhiệm hạnh phúc khôn tả”.[8] Giáo Hội cũng dạy chúng ta rằng: “Tất cả các bí tích, nhất là các bí tích khai tâm Ki-tô giáo, đều hướng tới mục tiêu là cuộc Vượt Qua cuối cùng dẫn đưa người con Thiên Chúa vượt qua sự chết, vào đời sống trong Nước Trời. Những điều người tín hữu tuyên xưng trong đức tin và hy vọng tôi đợi trông ngày kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau, lúc đó được hoàn tất trọn vẹn (x. Kinh Tin Kính của CÐ.Ni-xê-a Công-tăng-ti-nô-pô-li). Ðối với Ki-tô hữu, ý nghĩa sự chết được mặc khải trong ánh sáng của mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Ðức Ki-tô, Ðấng đem lại cho chúng ta niềm hy vọng duy nhất. Người ki-tô hữu được cùng chết với Ðức Ki-tô, lìa bỏ thân xác này để được ở bên Chúa (x.2Cr 5,8)”.[9] Chính vì hiểu được huyền nhiệm của sự chết, và rất trân trọng những người nằm xuống, cũng như dựa vào nền tảng của niềm tin vào Chúa Phục Sinh, Giáo Hội luôn khuyên nhủ con cái mình cần phải thương chôn xác kẻ chết. Lật lại sách Tôbia trong Cựu Ước, chúng ta thấy ông đã nói rằng: “Nếu thấy ai trong số đồng bào tôi chết và bị quăng thây ra phía sau tường thành Ni-ni-vê, thì tôi chôn cất người đó” (Tb 1,17).

Lời của Tôbia làm cho chúng ta nhớ lại hình ảnh của mẹ Tê-rê-sa thành Can-cút-ta. Một trong những trải nghiệm sâu xa của mẹ đánh động lòng người, chính là việc mẹ quyết tâm phải tìm được một nơi chốn cho những người bất hạnh, yếu đau đang nằm chờ chết ở dọc các phố nghèo nàn của thành phố Can-cút-ta. Với mẹ, họ cần được chết như là một con người, chứ không thể chết vất vưởng ở dọc đường như là những con thú và chẳng ai màng tới cả. Phẩm giá của con người, dù nghèo đến mấy, cũng cần phải được tôn trọng. Con người đó với thân xác mỏng dòn và đang đứng trước ngưỡng cửa của tử thần vẫn cần được yêu thương và trân trọng. Thân xác của con người đó chính là công trình sáng tạo tuyệt vời của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương, nên mẹ Tê-rê-sa đã lập ra những ngôi nhà hấp hối cho các anh chị em nghèo nàn. Dưới đây là một chia sẻ của các nữ tu của mẹ Tê-rê-sa về công việc thương chôn xác kẻ chết, trong một nhà hấp hối ở Can-cút-ta: “Khi những người hấp hối mới đến trung tâm thường họ không thể nói được, bởi thế khi họ được chở đến bằng xe cứu thương hay bởi các nam hay nữ tu sĩ khiêng vào, họ được nhập viện với tên ‘vô danh’. Sau đó, với một chút săn sóc và yêu thương và thực phẩm, họ có thể nói được và cho biết tên. Các chị cũng thường cố biết xem họ thuộc tôn giáo nào, để khi chết họ được chôn cất cách thích hợp. Người Công Giáo thì ra nghĩa trang, người Hồi Giáo thì ra chỗ chôn cất của người Hồi Giáo, và người Ấn Giáo được hỏa thiêu bên cạnh sông, là chỗ rất gần chúng tôi. Ða số những người đến với chúng tôi là Ấn Giáo, nên nếu chúng tôi không biết tôn giáo của họ, thường chúng tôi chôn họ theo Ấn Giáo”.[10]

Một sự dấn thân khác cho tinh thần thương chôn xác kẻ chết ở tại quê hương. Đó là hình ảnh của một anh em linh mục trẻ ở vùng sâu vùng xa, nơi đó đa số giáo dân là người nghèo. Khi được thuyên chuyển tới đó, cha đã tập chia sẻ cuộc sống với người nghèo, và phục vụ họ trong mọi phương diện. Một điều cha chia sẻ ghi khắc vào tâm hồn tôi. Cha đã mời gọi nhiều anh chị em giáo dân ở những nơi khác mà cha biết, xin họ giúp cha một điều, là góp phần giúp cha có thể đóng được những cỗ quan tài đơn sơ, để khi gia đình nghèo nào có người qua đời, dù Công Giáo hay lương giáo, đều được cha chia sẻ một cỗ quan tài đơn sơ. Tình yêu và lòng thương xót không bao giờ chê bai những cảnh nghèo nàn, tình yêu và lòng thương xót thắng vượt trên cái nghèo và sự chết, để luôn trân quý và gìn giữ phẩm giá của người vừa nằm xuống, dù họ là ai đi nữa.

Với sự trân quý người nằm xuống, mà Giáo Hội đã có nghi thức cao quý nhất để tiễn biệt con cái của mình khi họ được Chúa gọi về. Nghi thức đó chính là Thánh Lễ: “Trong Thánh Lễ, Hội Thánh bày tỏ sự hiệp thông hữu hiệu của mình với người quá cố: khi dâng lên Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần, hy tế cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ðức Ki-tô, Hội Thánh cầu xin Cha cho người con của mình được thanh luyện khỏi mọi tội lỗi, được tha mọi hình phạt, và được nhận vào bàn tiệc trong nước Chúa (x.Sách Lễ Nghi An Táng 57). Nhờ bí tích Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu, nhất là gia đình người quá cố, học sống hiệp thông với người ‘đã an nghỉ trong Chúa’, bằng cách rước Mình Thánh Chúa mà người đó đang là một chi thể sống động, để rồi cầu nguyện cho và cùng với người đó. Nghi thức từ biệt người quá cố lần cuối cùng là lời Hội Thánh ‘phó dâng người này cho Chúa’. ‘Cộng đoàn Ki-tô hữu chào từ biệt lần cuối cùng một chi thể của mình, trước khi xác người đó được mai táng’ (x.Sách Lễ Nghi AnTáng 10). Truyền thống By-zan-tin diễn tả ý nghĩa này bằng cái hôn từ biệt người quá cố: ‘Bằng lời chào cuối cùng này, chúng tôi hát tiễn người ra đi khỏi cuộc đời này và hát bài chia ly, cũng là bài hiệp thông và tái ngộ. Ðúng vậy, cái chết không hề chia lìa chúng tôi, vì tất cả chúng tôi đang đi cùng một đường và sẽ gặp lại nhau ở cùng một nơi. Chúng tôi sẽ không bao giờ bị chia cách, vì đang sống cho Ðức Ki-tô và giờ này đang được kết hiệp với Người, đang đi gặp Người…Tất cả chúng tôi sẽ đoàn tụ trong Ðức Ki-tô’ (x.Thánh Si-mê-on thành Thê-xa-lô-ni-ca, Sep.)”.[11] Vì thế, khi sống tinh thần thương chôn xác kẻ chết, là lúc chúng ta cầu nguyện cùng Chúa cho người vừa nằm xuống và cho bản thân chúng ta sau này, có được một chỗ trên nước Thiên đàng, như lời khuyên trong sách Gương Chúa Giê-su: “Hãy giữ mình như một khách lạ trên trần gian, một lữ khách không màng gì đến thế sự. Hãy giữ tâm hồn bạn được tự do và dâng lên Thiên Chúa, vì bạn không có căn nhà vĩnh cửu ở đây (x.Dt 13,14). Hằng ngày hãy dâng lên Người kinh nguyện, tiếng thở than và nước mắt thống hối của bạn, để sau khi chết linh hồn bạn được đến với Thiên Chúa trong hạnh phúc”.[12]

Thật là quý báu, khi thực thi lòng thương xót của Thiên Chúa qua chính hành động yêu thương giúp đỡ người anh em bên cạnh, trong lúc họ rơi vào tình trạng đói khát, rách rưới, bệnh hoạn và bị tù đày, cũng như khi họ chết đi. Tất cả những điều đó, khi chúng ta thực thi, không chỉ cho những anh chị em bất hạnh, mà chúng ta làm cho chính Chúa Giê-su, bởi vì họ là hiện thân của chính Chúa: “Sự khốn cùng của con người xuất hiện dưới nhiều hình thức: thiếu thốn vật chất, bất công và đàn áp, bệnh hoạn thể xác và tâm thần, cuối cùng là cái chết. Sự khốn cùng này là dấu chỉ cho thấy con người sau nguyên tội yếu đuối từ bẩm sinh và cần đến ơn cứu độ. Vì thế, Ðức Ki-tô đã chạnh lòng thương xót và mang lấy thân phận khốn cùng của con người và tự đồng hóa với người bé nhỏ trong các anh em”.[13]

Tóm lại, lòng thương xót có chiều rộng và chiều sâu như thế nào, và lòng thương xót có ý nghĩa gì cụ thể đối với người Ki-tô hữu, cũng như lòng thương xót cần được thực thi ra sao, thánh nữ Faustina đã diễn tả cách sâu sắc trong lời cầu nguyện viết vào năm 1937:

Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để đôi mắt con luôn nhân từ, và con không nghi ngờ hay kết án bất cứ ai qua giáng vẻ bề ngoài của họ, xin giúp con cảm nhận được những gì đẹp đẽ trong tâm hồn của anh chị em bên cạnh và luôn sẵn sàng nâng đỡ họ.

Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để đôi tai con luôn nhân từ, và con luôn chú ý đến nhu cầu của anh chị em bên cạnh, và đôi tai con không “dửng dưng” trước những nỗi đau và kêu than của anh chị em bên cạnh.

Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để miệng lưỡi con luôn nhân từ, và con không bao giờ nói xấu anh chị em bên cạnh, ngược lại mỗi lời con nói ra là lời an ủi và tha thứ cho mọi người.

Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để đôi tay con luôn nhân từ và tràn đầy những việc tốt lành, và đối với anh chị em bên cạnh con chỉ làm những điều tốt đẹp cho họ, phần con thì sẵn sàng đón nhận những gì khó khăn và lao nhọc.

Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để đôi chân con luôn nhân từ, và con luôn sẵn sàng đến và giúp đỡ anh chị em bên cạnh, và luôn làm chủ được sự nhọc nhằn và mệt mỏi của bản thân. Sự nghỉ ngơi đích thật của con nằm ở trong sự phục vụ anh chị em bên cạnh.

Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để trái tim con luôn nhân từ, nhờ đó con luôn cảm nhận được những khổ đau của anh chị em bên cạnh, và trái tim con không từ chối bất cứ ai, cũng như con luôn có thái độ dịu dàng và đúng đắn với những người mà con biết rằng, họ có thể lạm dụng những tình cảm của con; phần con xin được ẩn náu trong trái tim nhân từ của Chúa Giê-su. Với những khổ đau của bản thân, con xin được giữ riêng cho mình. Lạy Chúa, xin cho lòng thương xót của Chúa luôn hiện diện trong con.

Chính Chúa đã lệnh truyền cho con, là con cần phải thực thi ba mức độ của lòng thương xót. Mức độ thứ nhất là: Hành động thương xót và nhân từ – trong mỗi một hành động. Thứ hai: Lời nói thương xót và nhân từ – những gì con không thực hiện được bằng hành động, thì xin giúp con thực hiện bằng lời nói. Thứ ba: Cầu nguyện – Nếu con không thể thực thi lòng thương xót qua hành động và lời nói được, xin giúp con thực thi trong cầu nguyện. Lời cầu nguyện của con vươn tới những nơi, mà bản thân con với thân xác này không thể vươn tới được. Lạy Chúa Giê-su của con, xin thánh hoá con trong Chúa, vì Chúa có thể làm được mọi sự”.[14]

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

[1] X. FERLAY P., Abrégé de la vie spirituelle, Desclée, Paris 1988, t.108-109.

[2] RATZINGER J., Einfuehrung in das Christentum, t.248. Tham khảo bản tiếng Việt với tựa đề Đức Tin Ki-tô Giáo, hôm qua và hôm nay, do Lm. Athanasiô Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng Lam chuyển ngữ, Đà-lạt 2010.

[3] THOMAS À KEMPIS, Gương Chúa Giê-su, Nhà Sách Fatima, Sài-gòn 1965, Gẫm về sự chết, Chương XXIII, t.102.

[4] RATZINGER J., Einfuehrung in das Christentum, t.246.

[5] RAHNER K., Saemtliche Werke, Christliches Leben, Band 14, Herder Verlag, Freiburg 2006, t.162.

[6] BENEDIKT XVI, Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện.

[7] RATZINGER J., Einfuehrung in das Christentum, t.248-249.

[8] RAHNER K., Grundkurs des Glaubens, 5. Aufl., Herder Verlag, Freiburg 1976, t.423. Tham khảo bản tiếng Việt với tựa đề Những nền tảng Đức Tin Ki-tô, tập hai: Ki-tô học, do Nguyễn Luật Khoa OFM. biên dịch.

[9] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số.1680-1681.

[10] Linh Đạo Mẹ Têrêsa Calcutta, pt. Giuse TV Nhật chuyển ngữ, trong phần nói về Phục Vụ, nguồn: http://www.nguoitinhuu.org/

[11] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 1689-1690.

[12] THOMAS À KEMPIS, Gương Chúa Giê-su, Nghĩ về sự chết, Chương XXIII t.106.

[13] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2448.

[14] Trích dẫn bởi KASPER W., Barmherzigkeit, t. 144-145.

>> Mục Lục [12]

Bài 21: Tha thứ, thái độ căn bản của lòng thương xót

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu nguyện xin Thiên Chúa thương xót tha thứ cho chúng ta: “xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12). Lời cầu xin tha thứ mà Chúa Giê-su dạy cũng là một trong những chủ đề chính trong những lời cầu nguyện của người Do Thái. Trong lời cầu nguyện 18 của người Do Thái, có lời cầu xin ơn tha thứ: Lạy Cha, xin cha cho chúng con, vì chúng con đã phạm lỗi chống lại Cha, xin xóa bỏ những lầm lỗi của chúng con trước mặt Cha, vì lòng nhân từ của Cha thật bao la. Lạy Gia-vê Thiên Chúa, Đấng hay tha thứ, xin ngợi khen Cha.[1] Đọc kỹ lại từng lời cầu nguyện trong Kinh Lạy Cha, sẽ nhận ra được nét đặc biệt trong lời cầu nguyện về tinh thần tha thứ. Đó là, chỉ trong lời cầu nguyện này, theo Joachim Jeremias[2], có thêm một yếu tố “thêm vào”, đó là hành động của con người: “Như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Còn trong các lời cầu nguyện khác chỉ nói về hành động của Thiên Chúa. Vì thế, có thể nói rằng, sự tha thứ của Thiên Chúa luôn gắn liền với sự tha thứ của con người.

Điều này được diễn tả sống động trong dụ ngôn “tên đầy tớ mắc nợ không biết thương xót” (x.Mt 18,23tt). Ý tưởng quan trọng của dụ ngôn này được diễn tả qua câu nói của vị vua trong câu chuyện: Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? (Mt 18,32-33). Câu nói của vị vua nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của tinh thần tha thứ trong đời sống Đức Tin, cụ thể trong tương quan của người Ki-tô hữu với Chúa và với người khác. Tuy nhiên, theo Gnilka, trong lời cầu xin tinh thần tha thứ của Kinh Lạy Cha, chúng ta không được phép nói rằng: những ai đã sẵn sàng tha thứ cho người khác thì họ đã có một công nghiệp. Với công nghiệp này họ được phép đòi hỏi sự tha thứ của Chúa. Đúng hơn, người Ki-tô hữu cần ý thức rằng: con người chỉ được phép cầu xin ơn tha thứ của Chúa, khi con người về phần mình đã sống tinh thần tha thứ.[3] Cũng thế, đối với Michel Hubaut, thì “chữ ‘như’ này diễn tả một sự lô-gíc của tình yêu…Và không thể chấp nhận được tình trạng, một đàng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, Đấng tha thứ, nhưng đàng khác vẫn đóng kín mình lại và từ chối tha thứ cho tha nhân. Con người cộng tác vào sự tha thứ tội lỗi cho chính họ bằng cách họ đón nhận tình yêu giàu lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng giúp cho con người có khả năng để tha thứ cho anh chị em. Con người, khi sống tinh thần tha thứ cho người khác, là họ bước vào trong sự lô-gic của lòng nhân từ bao la của Thiên Chúa”.[4] Thật vậy, sự tha thứ và lòng nhân hậu của Thiên Chúa lớn hơn tất cả những tội lỗi của con người. Ngài có thể biến đổi những lầm lỗi vào trong tình yêu. Tất cả đều có thể đối với Thiên Chúa, tất cả những gì cũ kỹ đều có thể trở nên mới đối với Thiên Chúa.

Cũng thế, sự tha thứ đem lại một cuộc gặp gỡ mới, sự tha thứ “cưu mang” một sự sinh ra mới, đó chính là giao ước mới của Thiên Chúa với dân Ngài, mà tiên tri Giê-rê-mi-a diễn tả : Này sẽ đến những ngày – sấm ngôn của Đức Chúa – Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng – sấm ngôn của Đức Chúa. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó – sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: ‘Hãy học cho biết Đức Chúa’, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta – sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” (Gr 31,31-34). Dù dân Ít-ra-en có thất trung và “đập vỡ” giao ước với Thiên Chúa trên núi Si-nai, nhưng Thiên Chúa vẫn trung tín và một mực yêu thương dân của Ngài. Ngay từ ngày đầu tiên, Thiên Chúa với tình yêu đã nói lời xin vâng đối với con cái của Ngài, thì lời xin vâng đó có giá trị cho đến ngàn đời. Sợi dây nối kết của lời xin vâng tình yêu này vững chắc đến nỗi, không có sức mạnh nào của sự dữ, của bóng đêm có thể cắt đứt được. Ngược lại, trong lời xin vâng của tình yêu, Thiên Chúa thiết lập một giao ước mới với con cái của Ngài. Nhưng “cái mới” này không phải là sự lập lại của hành động ngày xưa, mà “cái mới” này diễn tả sự tái lập cách tuyệt vời dân của Thiên Chúa, sự tái lập này dựa trên sức mạnh biến đổi và thánh hóa nội tâm mà con cái của Thiên Chúa nhận được. Vì thế, lề luật và tinh thần của Chúa không còn được ghi trên phiến đá như giao ước ngày xưa trên núi Si-nai, mà được ghi trong tâm khảm của con người. Nơi tâm khảm đó, nơi cái bên trong sâu thẳm nhất, những người con của đất thấp học biết Cha của trời cao. Cái biết này không chỉ là cái biết thông thường của trí hiểu, mà là cái biết diễn tả thái độ đón nhận và biểu lộ niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, cái biết của những tấm lòng đơn hèn vui mừng bước vào trong tương quan tình yêu với Ngài, vào trong một cộng đoàn với Thiên Chúa là Cha,[5] Đấng yêu thương con người đến nỗi đã hy sinh người Con duy nhất của Ngài cho nhân loại. Đó là Đức Giê-su Ki-tô, Ngài đến để đem Tin Mừng cho con người, Tin Mừng của tha thứ, Tin Mừng của cứu rỗi.

Theo sách ngôn sứ I-sai-a, Người Tôi Tớ của Giavê là Đức Ki-tô sẽ gánh lấy tội của thế gian (x.Is 53,7). Bởi vậy, Gio-an Tẩy giả đã tóm tắt thế nào là chờ đợi Đấng Mê-si-a: đó là nhận “phép rửa thống hối, để được tha tội” (Mt 1,21). Đây là một chủ đề cốt yếu của Tin Mừng. Tha tội là đặc điểm của trật tự mới, một trật tự phải chi phối những quan hệ giữa Thiên Chúa và con người. Nói cách khác, Đức Ki-tô đến rao truyền Phúc Âm của Chúa. Phúc Âm này là Tin Mừng dành cho mọi người, là sứ điệp đem lại niềm vui. Nhưng Đức Ki-tô không chỉ là người giảng lý thuyết, mà đi đôi với lời giảng là những hành động tương hợp với tinh thần của Ngài. Thật vậy, xuyên suốt bốn Tin Mừng, biết bao hành động của Đức Ki-tô đã đưa lại niềm vui cho những con người bất hạnh, cho những con người tội lỗi. Hình ảnh của người phụ nữ tội lỗi nổi tiếng trong thành mà Lu-ca nhắc đến là một điển hình (x.Lc 7,36-50). Một cuộc gặp gỡ thật đặc biệt giữa lòng nhân từ hay tha thứ của Chúa, với thân phận tội lỗi nhưng chất chứa nỗi lòng ăn năn sâu thẳm của người phụ nữ. Một cuộc gặp gỡ khác giữa người phụ nữ bị kết án vì tội lỗi và Đức Ki-tô. Bối cảnh và tình tiết của câu chuyện được Gio-an diễn tả thật đặc biệt (x.Ga 8,2-11). Một phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình, và theo luật thì bà ta phải bị ném đá. Xử theo luật sẽ là như thế, còn Đức Ki-tô, một Ráp-bi giảng về lòng nhân từ và tình yêu trong đôi mắt người Do Thái thời đó, sẽ xử như thế nào đây? Giữa vòng tròn đám đông vây quanh và dưới sức ép của bao “cái mồm to” đang đổ dồn và chờ đợi, Đức Ki-tô vẫn bình tâm, cúi xuống viết trên đất. Chẳng hiểu Ngài viết gì. Một thái độ lạ lùng làm đám đông nhốn nháo và vặn hỏi Ngài nhiều hơn.

Vẫn bình tâm, Đức Ki-tô ngẩng đầu lên và nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Một câu nói thật nhẹ nhàng, nhưng rất rõ ràng được ném vào bao “cái mồm to” với dụng ý rất xấu xa của đám người gian ác. Và điều gì xảy ra? Tất cả im thin thít, và những bước chân lẳng lặng tách khỏi đám đông, từ đôi chân già nhất đến đôi chân trẻ nhất. Vòng tròn kết án của con người theo luật lệ hà khắc đã tan biến, trả lại một bầu khí nhẹ nhàng dễ thở hơn.

“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Chúa đã nói lời này với nhóm người chỉ nhìn đến lề luật và tội lỗi của người đàn bà; họ tự tin, họ ngạo nghễ dương dương tự đắc. Với lời đó, Chúa muốn nhắc họ nhớ đến tội lỗi của họ: họ không thể để mình ra như những kẻ vô phương trách cứ và không có tội; chính họ cũng cần chạy đến xin Thiên Chúa kiên nhẫn với họ và thương xót họ. Làm sao mà họ có thể vội vã yêu cầu xử tử người đàn bà này như thế, mà không hề nghĩ lại bản thân của họ? Ngoài ra, Chúa không muốn đưa ánh mắt nhìn họ, mà Chúa mời gọi họ hãy tự mình phán xét chính mình; Ngài không muốn gây áp lực trên sự tự do của bất kỳ ai. Thân phận làm người là như thế, đã là người thì có tội. Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành và thánh thiện, đúng lý ra Ngài có đầy đủ lý do để lên án loài người tội lỗi chúng ta, nhưng vì thương xót, Ngài đã ban cho chúng ta biết bao cơ hội: “Ta không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống”. Trong dụ ngôn về hai con nợ, Chúa Giêsu cũng nói một câu đáng chúng ta suy nghĩ: “Sao ngươi không biết thương xót bạn ngươi như Ta đã thương xót ngươi” (Mt 18,33).

Không một ai dám khẳng định là mình không có tội; không một ai dám cầm đá mà ném trước cả. Tất cả đã bỏ đi. Chỉ còn chị phụ nữ và Chúa Giê-su. Về điều này, thánh Âu-tinh bình luận thật thâm thúy: chỉ còn lại nơi hiện trường có hai hữu thể là người phụ nữ đáng thương và Ðức Giêsu là hiện thân của lòng thương xót (Relietic sunt duo, misera et misericordia).

Đặt mình là người phụ nữ lúc đó, chắc cũng thở phào ra một chút, nhưng vẫn còn hồi hộp lắm, vì không biết Đức Ki-tô sẽ xử với tội lỗi của mình như thế nào. Vẫn với thái độ bình tâm, Đức Ki-tô ngẩng đầu lên và bây giờ Ngài mới nói với người tội lỗi : “Này Chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”. Cho tới đây, Người chỉ quan tâm đến các kẻ tố cáo người phụ nữ; bây giờ Người ngỏ lời với bà.

“Thưa ông, không có ai cả”. Trước lời đáp trả của người phụ nữ, Đức Ki-tô dịu dàng nhưng rất cương quyết nói với chị:Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!. Lòng nhân từ lên tiếng tha thứ và đem lại sức sống mới. Một sức sống mới cần phải đoạn tuyệt với tội lỗi, một sức sống mới tràn đầy tự do, niềm vui và hạnh phúc. Nói khác đi, Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nào nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời.

Với gương lành sống tinh thần tha thứ của Đức Ki-tô và với lời dạy dỗ của Ngài mời gọi, chúng ta cần học biết cảm thông, tha thứ. Thật vậy, sự tha thứ đóng một vai trò quan trọng trong đời sống làm người. Đó là một trong những thái độ căn bản trong đời sống bình thường cho mọi người và đặc biệt cho đời sống của người Ki-tô hữu, những người tin vào Đức Ki-tô, Đấng đã sống tinh thần tha thứ cách triệt để, và đã dạy dỗ con cái theo gương Ngài sống tinh thần tha thứ cho nhau. Kế bên lời cầu nguyện trong Kinh Lạy Cha về tinh thần tha thứ mà Đức Ki-tô dạy, chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng những giáo huấn khác của Đức Ki-tô nhắc nhớ chúng ta sống tinh thần tha thứ. Như trong những câu kế tiếp của Kinh Lạy Cha, Đức Ki-tô nhắc lại tinh thần tha thứ, nhưng với một cung cách rõ ràng và mạnh mẽ hơn: Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15). Như vậy, tha thứ cho anh chị em đồng loại là một đòi hỏi dành cho những ai sống đời sống Đức Tin vào Chúa. Chính sự đòi hỏi này cũng là một lời cảnh báo, đừng bao giờ để cho những tự ái, những căng thẳng, những vết thương, sự thù hận và sự chai cứng trái tim “giết chết” đi lòng nhân từ, nhận chìm thiện chí hòa giải. Đời sống người Ki-tô hữu hệ tại phần lớn ở chính lòng nhân từ thương xót, yêu mến sự hòa bình và sẵn sàng tha thứ, như chính Đức Ki-tô đã sống và mời gọi chúng ta sống như Ngài. Tuy nhiên, tha thứ là một điều không dễ làm. Đó là một hành vi đòi hỏi chúng ta phải mở lòng ra, đôi khi phải lấy hết can đảm để nói lên hai tiếng “tha thứ”, để chạy đến với người có lỗi và giang rộng đôi tay ôm họ vào lòng.

Đón nhận nhau, tha thứ cho nhau thật đẹp. Nhưng trong tha thứ có giới hạn về thời gian và không gian không? Trong Phúc Âm của Mát-thêu, chúng ta đọc lại một cuộc đối thoại ngắn ngủi của Phê-rô với Chúa Giê-su: “Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: ‘Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?’ Đức Giê-su đáp: ‘Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy’.” (Mt 18,21-22). Thật thú vị, câu trả lời của Đức Ki-tô! Martini đã làm một con tính, lấy 1440 phút của mỗi ngày để chia với 490 lần là kết quả của 70 lần 7, thì trong một ngày, cứ gần 03 phút cần phải tha thứ một lần. Như thế, tha thứ cho nhau là thái độ thường xuyên và cần thiết cho cuộc sống thường ngày.[6]  Còn đối với Bonhoeffer, một thần học gia và mục sư bị phát xít Đức giết vào thế chiến thứ hai, thì tha thứ không cần con số. Đừng đếm bao nhiêu lần cần phải tha thứ. Tha thứ không “quen” số lượng và không biết đến “chấm hết”. Tha thứ là thái độ sống hằng ngày và không ngừng nghỉ.[7] Thật vậy, trong cuộc sống thường ngày, con người cần phải tha thứ liên lỉ và tha thứ về rất nhiều chuyện. Tha thứ cho một ai đó làm ta thất vọng, tha thứ cho những người đã làm cho ta phải chờ đợi, tha thứ cho những người thân bỏ rơi ta khi ta lâm vào hoàn cảnh cảnh khó khăn, tha thứ cho những lời nói ác ý, những hành động bội phản và lừa dối làm cho ta bị tổn thương. Làm sao kể siết những điều chúng ta cần phải tha thứ. Như thế, cần phải tha thứ không ngừng, phải liên lỉ sống tinh thần hòa giải, nếu chúng ta muốn có một tâm hồn thanh bình, nếu chúng ta ý thức yêu thương chính mình và cuộc sống của mình.

Về câu chuyện của thánh Phê-rô ở trên, Đức Phanxicô cũng nhắc tới trong tông sắc năm Thánh lòng thương xót của Thiên Chúa, số 09: “Khi trả lời cho câu hỏi của Phêrô cần phải tha thứ bao nhiêu lần, Chúa Giêsu nói: ‘Thầy không nói bảy lần, nhưng bảy mươi lần bảy mươi lần’ (Mt 18,22). Sau đó, Ngài tiếp tục kể dụ ngôn về người ‘đầy tớ tàn nhẫn’, là người khi bị chủ gọi đến bảo phải trả lại một số tiền rất lớn, anh đã quỳ trên đầu gối mình van xin lòng thương xót. Người chủ hủy bỏ nợ của anh. Nhưng sau đó anh gặp một người đầy tớ bạn chỉ nợ anh một vài xu. Người bạn đến lượt mình cầu xin anh thương xót, nhưng người đầy tớ đầu tiên đã khước từ và ném bạn mình vào tù. Khi nghe chuyện này, người chủ tức giận và đã triệu hồi người đầy tớ đầu tiên trở lại và nói, ‘ngươi không buộc phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?’ (Mt 18,33). Chúa Giêsu kết luận: ‘Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình’ (Mt 18,35). Dụ ngôn này chất chứa một giáo lý sâu sắc cho tất cả chúng ta. Chúa Giêsu khẳng định rằng lòng thương xót không chỉ là một hành động của Chúa Cha, nó trở thành một tiêu chuẩn để xác thực ai là con cái thật sự của Ngài. Nói vắn tắt, chúng ta được mời gọi để tỏ lòng thương xót vì lòng thương xót đã được thể hiện ra cho chúng ta trước. Tha thứ cho các sai phạm trở thành diễn đạt rõ ràng nhất của tình yêu thương xót, và đối với Kitô hữu chúng ta đó là một mệnh lệnh mà chúng ta không thể thoái thác cho chính mình. Có những lúc dường như thật là khó biết bao để tha thứ! Nhưng tha thứ là công cụ được đặt vào đôi tay mỏng dòn của chúng ta để đạt được sự thanh thản trong lòng. Lướt thắng được cơn giận, thịnh nộ, bạo lực và trả thù là điều kiện cần thiết để vui sống. Vì vậy, chúng ta hãy chú ý đến lời khuyên nhủ của Thánh Tông Đồ Phaolô: ‘chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn’ (Eph 4,26)”.

Ngoài ra, trong Bài Giảng Trên Núi, ở đoạn trước của Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su đã dạy rằng: Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình (Mt 5,23-24). Sự chia cách và khuynh hướng tạo nên những căng thẳng không được phép có mặt trong đời sống cộng đoàn và giữa anh chị em với nhau. Nếu không, thì mọi người trong cộng đoàn sẽ không xứng đáng dâng lễ để thờ lạy Thiên Chúa. Nói khác đi, sự bất hòa của anh chị em với nhau làm rách mối tương quan giữa họ với Thiên Chúa. Lễ tế dâng lên Thiên Chúa của cộng đoàn cần được phát xuất từ những trái tim hiệp nhất, yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho nhau. Lễ tế dâng lên Thiên Chúa và tình huynh đệ nối kết chặt chẽ với nhau.[8]  Ở đây, thánh Cyprianô nhắn nhủ rằng: “Thiên Chúa không nhận tế phẩm của những kẻ gây bất hoà, và Ngài truyền cho họ hãy rời bỏ bàn thờ, và đi làm hoà với anh em trước đã, ngõ hầu có thể giao hoà với Thiên Chúa bằng những lời nài xin an bình. Hy lễ đẹp lòng Chúa hơn cả là sự bình an của chúng ta, sự hoà thuận, tình đoàn kết của đoàn dân trong sự hợp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.[9] Hơn nữa, tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa sẽ trọn vẹn hơn xuyên qua tinh thần hòa giải với người bên cạnh. Thật vậy, nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối (1Ga 4,20).[10]

Trong giáo huấn về Đức Tin và cầu nguyện, Đức Ki-tô cũng nói: Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em (Mc 11,25). Lời cầu nguyện cùng với của lễ không bao giờ tương phản với hành động, ngược lại cả hai được nối kết bởi một nhịp cầu. Cũng thế, tương quan của chúng ta đối với Thiên Chúa luôn gắn liền với tương quan của chúng ta với tha nhân. Chúng ta không thể đi vào cộng đoàn để cầu nguyện, để dâng của lễ lên Chúa, cũng như để sống tinh thần hiệp thông yêu thương, nếu lòng chúng ta nặng trĩu những nỗi đau, nếu những nỗi hận đang trì kéo chúng ta xuống những hố sâu đen tối. Hơn nữa, lời cầu nguyện và của lễ của mỗi chúng ta trong cộng đoàn sẽ chẳng sinh ích gì, nếu chúng ta đang có những chuyện xích mích với anh chị em trong gia đình, với người hàng xóm, với bạn bè xung quanh, và lại ôm ấp vết thương và những bực tức, ôm ấp nỗi hận thù ngăn cản không cho tấm lòng nhân từ mở ra để tha thứ, để hòa giải và xây dựng lại đời sống của cộng đoàn. Đối với Jacques Guillet, cộng đoàn của Tin Mừng được thành lập trên tinh thần tha thứ. Cộng đoàn đó chỉ hiện hiện ở nơi mà tất cả các anh chị em, nghĩa là từng cá nhân một trong cộng đoàn có được một chỗ để hiện diện, được góp mặt vào trong một tập thể chung, vượt trên sự khác biệt về tính tình, và bất chấp mặt ưu và mặt khuyết của họ. Trong cộng đoàn đó, anh chị em chấp nhận mỗi người như họ là, chấp nhận tất cả những lỗi lầm và tội lỗi họ gây ra. Đó chính là tinh thần tha thứ được diễn tả qua tinh thần đón nhận nhau trong cộng đoàn.[11]

Thánh Phao-lô cũng luôn quan tâm đến sự tha thứ trong đời sống cộng đoàn. Ngài đã để lại nhiều giáo huấn khuyên nhủ mọi người trong cộng đoàn sống tinh thần yêu thương và tha thứ. Trong thư gởi giáo đoàn Ê-phê-sô, thánh nhân đã khuyên nhủ mọi người về đời sống mới trong Đức Ki-tô, đời sống mới trong tình yêu của Chúa. Trong lời khuyên đó có đoạn: Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô” (Eph 4,31-32). Cộng đoàn của Tin Mừng, của những người con sống theo gương Đức Ki-tô cần lột xác, cần cởi bỏ đi con người cũ với chua cay gắt gỏng, với nóng nảy giận hờn, với la lối thóa mạ, để mặc lấy chính Đức Ki-tô, để thấm nhuần tinh thần của Thần Khí Thiên Chúa, để trở nên con người mới thuộc về Đức Ki-tô. Con người mới đó đứng vững trên mặt đất của tình yêu thương. Nơi đó anh chị em trong cộng đoàn học cách hành xử thật tốt với nhau. Một trong những cách hành xử tốt là luôn ý thức tha thứ cho nhau. Sự tha thứ mang lại tinh thần Phục Sinh cho cộng đoàn. Sự tha thứ này trước hết đến từ Thiên Chúa và qua Đức Ki-tô dành cho mỗi người trong cộng đoàn. Nếu thành thật với nhau, thì sẽ nhận ra rằng, cộng đoàn và mỗi người trong cộng đoàn mỗi ngày luôn cần đến sự tha thứ của Chúa. Vì thế, cộng đoàn cần chú ý cầu xin sự tha thứ của Chúa, và cũng cầu xin Chúa cho mỗi người trong cộng đoàn có thiện chí và có khả năng để biết sống tha thứ cho nhau mỗi ngày. Trong thư gởi cho giáo đoàn Cô-lô-sê, thánh Phao-lô cũng nhấn mạnh đến tinh thần sống tha thứ trong cộng đoàn của những người được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn: Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau (Cl 3,12-13). Thánh Phao-lô mời gọi anh chị em thuộc về cộng đoàn của Thiên Chúa, mang lấy những tinh thần tốt lành của Đức Ki-tô và cần vượt trên những sự khác biệt, vượt qua những thành kiến tiêu cực mà người này có về người nọ, biết chấp nhận nhau, chấp nhận mỗi người như họ là, cần phải chịu đựng lẫn nhau trong ý hướng tích cực và sẵn sàng tha thứ cho nhau. Tinh thần tha thứ bắt nguồn từ chính Thiên Chúa, Đấng là mẫu gương tuyệt vời nhất sống sự tha thứ cách trọn vẹn. Trở nên hoàn thiện như Cha trên trời (x.Mt 5,48), là yêu thương như Cha trên trời yêu thương, là tha thứ như Cha trên trời, Đấng giàu lòng xót thương luôn tha thứ. Khi chúng ta tha thứ là chúng ta sống trong sự hài hòa với tình yêu của Ngài. Cũng thế, khi sống tinh thần tha thứ, là chúng ta mở rộng lòng mình ra cho tình yêu giàu lòng thương xót của Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ, Đấng chúng ta tin tưởng, và Đấng mà chúng ta luôn luôn có thể chạy đến bất cứ lúc nào, để xin Ngài che chở, cứu chữa, đặc biệt khi chúng ta rơi vào vòng xoáy của sự dữ, hay khi chúng ta phải đối diện với những cám dỗ thử thách trong cuộc đời dương thế này. Một trong những thử thách lớn là sống nhân từ và yêu thương kẻ thù.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

[1] X. STRACK H.L., und BILLERBECK P., Das Evangelium nach Matthaeus, I Band, C.H.Beck Verlag, Muenchen 1922, t.421.

[2] JEREMIAS J., Das Vater Unser, Calwer Hefter 50, Calwer Verlag, Stuttgart 1962, t.25.

[3] X. GNILKA Joachim, das Matthaeusevangelium, teil 1, t.225.

[4] HUBAUT M., Dieu, mon père et votre père, Desclée de Brouwer, Paris 1999, t.117.

[5] HAAG E., Das Buch Jeremia, teil II, 1. Aufl., Patmos Verlag, Düsseldorf 1977, t.105-108.

[6] X. Martini C., Le Notre Pere, t.41.

[7] X. BONHOEFFER D., Gesammelte Schriften, IV. Band, 3.Aufl., CHR. Kaiser Verlag, München 1975, t. 402-403.

[8] X. TRILLING W., Das Evangelium nach Matthaeus, Geistliche Schriftlesung, 1. Teil, Patmos Verlag, Duesseldorf 1962, t.118-119.

[9] Trích trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2845, t.789.

[10] X. HUBAUT M., Dieu, mon père et votre père, t.118.

[11] X. GUILLET J., trong “Dictionnaire de Spiritualité”, Tome XII, Beauchesne, Paris 1984, c.213-14.

>> Mục Lục [12]

Bài 22: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” và giới răn yêu thương kẻ thù

Cao điểm cũng như chóp đỉnh của tình yêu và lòng thương xót mà Thiên Chúa mời gọi, đối với Chúa Giê-su trong Bài Giảng Trên Núi, chính là giới răn yêu thương kẻ thù: Khi ấy, Chúa Giê-su nói với các môn đệ rằng: Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt 5,43-44). Chúa đã mời gọi mọi người thực thi và sống giới răn yêu thương kẻ thù cách triệt để. Điều này tương hợp với lời mà Chúa mời gọi chúng ta: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Chính Chúa Giê-su đã sống lời mời gọi của Ngài, khi Chúa cầu xin Thiên Chúa trên trời tha cho các người hành quyết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Thật vậy, lời của Chúa Giê-su trên thánh giá là lời sốngLời sống được nói từ Thánh Giá cho ta thấy một cách thật ngỡ ngàng tình thương của Thiên Chúa còn lớn hơn tội lỗi biết bao nhiêu. Trước khi suy niệm về lời sống này của Chúa Giê-su, chúng ta thấy rằng, tinh thần yêu thương kẻ thù là một đòi hỏi khó khăn nhất mà Chúa Giê-su trao lại cho chúng ta. Tuy nhiên tinh thần yêu thương kẻ thù lại là điều răn trung tâm nhất của Ki-tô giáo. Điều răn này được cấy rễ trong chiều sâu nhất của Giáo Lý Ki-tô giáo, và vì thế tinh thần này trở thành nét đặc biệt trong cách sống của người Ki-tô hữu. Theo ý kiến của các Giáo Phụ, thì giới răn yêu thương kẻ thù là một nét mới và đặc sắc của Ki-tô giáo đối với Cựu Ước và các triết lý ngoại giáo. Trong thư thứ hai của Clemen có nói: Ai không yêu thương kẻ thù của mình, thì người đó không phải là Ki-tô hữu. Giáo Phụ Tertullian gọi giới răn yêu kẻ thù là giới răn nền tảng, và đối với Chrystosomos thì yêu kẻ thù là tóm tắt toàn bộ các nhân đức.[i]

Nhưng dù vậy, thì việc yêu kẻ thù vẫn là một đòi hỏi rất khó thực hiện đối với tất cả mọi người. Đó là một lý tưởng mà ít người có thể đạt tới. Vì thế, mà một số người đã đặt ra vấn nạn, giới răn yêu thương kẻ thù có thực tế không? Giới răn yêu thương kẻ thù này có phải là một điều gì nằm trong thế giới hoàn hảo (Utopie), và giới răn này là một sự đòi hỏi vượt sức con người không? Làm sao mà người mẹ có đứa con bị giết lại có thể yêu thương kẻ giết con của mình? Bà có thể tha thứ cho kẻ đó không? Chúng ta sẽ đi về đâu, nếu chúng ta không chống lại sự dữ; chúng ta sẽ đi về đâu, nếu chúng ta tha thứ cho kẻ thù thay vì chúng ta đòi hỏi một sự công bằng? Heinrich Heine, Friedrich Nietzsche, Sigmund Freud và những người khác đã đặt ra những câu hỏi mang tính cách phê bình trên. Với Freud, thì giới răn yêu thương kẻ thù là một loại trong Credo quia absurdum est, nghĩa là là một điều vô nghĩa trong những thứ vô nghĩa.[ii]

Kasper đã đặt lại vấn nạn chúng ta sẽ đi về đâu, khi chúng ta không nhân từ và không tha thứ, nếu chúng ta trả thù kẻ gây ra những bất hạnh cho chúng ta, bằng hành động xấu xa chúng ta – Mắt đền mắt, răng đền răng. Với Kasper, khi nhìn những kinh nghiệm thật đau thương và ghê gớm của những hành động trả thù trong thế kỷ thứ 20, thì giới răn yêu thương cần được cập nhất hoá trở lại, và lòng thương xót nhân từ và tha thứ cần được mọi người nhắc đến như là những hành động khôn ngoan nhất. Chỉ có những ai vượt trên những nấm mồ cũ kỹ, và sẵn sàng đưa tay để bắt tay người khác, để xin được thứ tha, cũng như để sẵn sàng tha thứ, thì những xung đột gây ra nhiều đau thương và làm cho bao dòng máu phải chảy được đặt lại trên bàn để đi tìm hướng giải quyết. Như thế, một tiến trình chữa lành cho biết bao vết thương gây khổ đau sẽ được bắt đầu. Tiến trình chữa lành này sẽ xuyên suốt qua cái vòng lẩn quẩn của bạo lực và dùng bạo lực để chống lại bạo lực, và cũng xuyên qua cái vòng tròn không lối thoát của tội ác và trả thù. Nói như thế, không phải là chúng ta sẽ giấu nhẹm hay quên khuấy những bất công, những hành động bất nhân. Thật vậy, chúng ta không được phép cất chúng vào trong những ngăn tủ bàn. Chúng ta cần phải thành thật với nhau, đặt những hành động bất nhân và bất công trên bàn, và chúng ta cần phải thú nhận tội lỗi mà chúng ta gây ra với tất cả sự hối lỗi xin thứ tha, cũng như chúng ta mở rộng lòng khoan nhân để tha thứ, để cùng hướng tới một tương lai mới hơn và tốt hơn. Có như thế, thì tinh thần tha thứ sẽ đến, tinh thần này sẽ tẩy trừ nọc độc của thù hận, và làm cho tương quan của chúng ta không còn vướng mắc hai từ ngữ kẻ thù. Như vậy, một sự khởi đầu mới sẽ lên đường, và một tương lai mới của chúng ta sẽ tìm thấy lối đi. Trong tinh thần này, thì giới răn yêu thương kẻ thù không còn là một thứ của credo quia absurdum est nữa, mà là một kiểu của credo quia rationabile est, nghĩa là giới răn yêu thương kẻ thù là một kiểu hành động của lý trí đầy khôn ngoan.[iii]

Trong tinh thần của Phật Giáo, cũng nhắc tới lòng từ bi đối với kẻ thù. Trong cuốn Bát Chánh Đạo, con đường đưa đến hạnh phúc, Thiền sư Bhante Henelopa Gunaratana viết: “Lòng Từ Bi Đối Với Kẻ Thù. Có người sẽ tự hỏi làm sao mà họ có thể từ bi đối với kẻ thù. Làm sao mà họ có thể nói một cách chân thật, ‘Cầu cho kẻ thù của tôi được hạnh phúc, bình an, sức khỏe. Cầu cho họ không bị những khó khăn hay hoạn nạn’. Câu hỏi này phát khởi từ sự suy nghĩ sai lầm. Người với tâm đầy phiền não có thể cư xử, hành động xúc phạm hay làm hại đến ta. Do đó, ta coi họ là kẻ thù. Nhưng thực sự ra không có ai là kẻ thù của ta cả. Chỉ có trạng thái tâm tiêu cực của người đó gây ra vấn đề cho ta. Chánh niệm giúp chúng ta thấy rằng các trạng thái tâm không thường hằng. Chúng chỉ tạm bợ, có thể sửa đổi, có thể biến chuyển. Cách tốt nhất để ta được an vui, hạnh phúc là giúp kẻ thù của mình giải quyết các vấn đề của họ. Nếu tất cả các kẻ thù của ta đều được giải thoát khỏi khổ đau, bất mãn, sân hận, nghi ngờ, căng thẳng, bực tức, thì họ không có lý do gì để làm kẻ thù của ta cả. Một khi đã không còn những khổ đau, thì kẻ thù cũng giống như bao người khác – một chúng sinh tuyệt vời…Nếu tâm không trong sạch, thì hành động theo sau tâm ý đó sẽ không trong sạch và tai hại. Điều ngược lại cũng đúng. Như Đức Phật đã dạy chúng ta, ý nghĩ trong sạch về từ bi, tình thương thì mạnh mẽ hơn hận thù, mãnh liệt hơn vũ khí. Vũ khí tàn phá. Nhưng tình thương giúp con người sống trong hòa bình và hòa hợp. Vậy bạn thử nghĩ điều gì sẽ mạnh mẽ hơn và sẽ tồn tại lâu hơn?”[iv]

Để có thể thực thi lòng từ bi đối với kẻ thù, với tinh thần của Phật Giáo, cần phải từ bỏ hận thù. “Rào cản lớn nhất đối với lòng từ bi là sân hận. Khi lòng ta tràn đầy sân hận, thì tâm không còn chỗ cho tình cảm thương yêu đối với bản thân hay đối với người khác, không còn chỗ cho hòa bình hay tự tại. Mỗi người phản ứng với sân hận theo cách riêng của mình. Người thì cố gắng để bào chữa cho các cơn giận của mình bằng cách tự nhủ, ‘Tôi có quyền được giận.’ Người khác thì chấp vào sự giận hờn của họ một thời gian dài, đôi khi hàng tháng hay hàng năm. Họ cảm thấy rằng sự sân hận đó khiến họ rất đặc biệt, rất nguyên tắc. Cũng có người lại biểu lộ lòng hận thù ra ngoài bằng những hành động chống báng lại kẻ mà họ giận ghét. Không cần biết cách bạn thể hiện lòng sân hận như thế nào, bạn có thể chắc chắn về một điều: tâm sân hận rút lại làm hại bạn nhiều hơn là nó hại người bạn giận.

Bạn có để ý mình cảm thấy thế nào khi giận dữ không? Bạn có cảm nhận được sự căng thẳng, khó chịu trong lồng ngực, bụng nóng bừng, mắt mờ đi không? Có phải là đầu óc bạn trở nên tối tăm, lời nói trở nên cộc cằn, khó nghe hơn không? Các bác sĩ bảo rằng thường xuyên biểu lộ sân hận mang đến những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe của chúng ta – máu cao, ác mộng, mất ngủ, đau dạ dày, hay ngay cả đau tim. Lòng sân hận cũng nguy hại cho tâm không kém. Nói một cách thẳng thắng là sân hận khiến thân tâm ta rất khổ sở.

Sân hận cũng làm rạn nứt các mối liên hệ tương quan với người. Bạn thường tránh gặp người bạn đang giận, có đúng không? Ngược lại cũng thế, khi biết bạn giận, người kia cũng tránh bạn. Không ai muốn quan hệ với người đang trong cơn nóng giận. Người tràn đầy sân hận có thể rất vô lý, nhiều khi còn nguy hiểm nữa.

Hơn thế nữa, sân hận thường không tác hại nhiều đến người bị giận. Trong nhiều trường hợp, ta nóng giận với người đã xúc phạm ta, nhưng họ không hề hay biết, nên không ảnh hưởng gì đến họ cả. Ngược lại, chính ta là người phải đỏ mặt, phải lớn tiếng và tạo ra một cảnh tượng khó coi, khiến ta cảm thấy rất khổ sở. Kẻ kình địch còn có thể diễu cợt sự giận dữ của ta…

Rõ ràng là sân hận có thể làm hại bản thân ta, vậy ta phải đối phó với nó như thế nào? Làm sao ta có thể buông bỏ sân hận và thay thế nó bằng tâm từ bi, tình thương yêu? Để đối phó với sân hận, trước hết chúng ta phải quyết định tự kiềm chế không hành động theo bản năng sân hận… Một phương cách khác để đối trị với sân hận là quan sát kết quả của nó. Chúng ta biết rất rõ rằng khi giận dữ, ta không thể thấy sự thật một cách rõ ràng. Do đó, chúng ta có thể phạm vào những hành vi bất thiện… Cách đối trị tốt nhất đối với sân hận là lòng kiên nhẫn. Kiên nhẫn không có nghĩa là để cho người khác lấn lướt ta. Kiên nhẫn có nghĩa là dùng chánh niệm để kéo dài thời gian, để ta có thể hành động một cách đúng đắn. Khi phản ứng lại với sự khiêu khích bằng lòng kiên nhẫn, chúng ta sẽ nói lên được chân lý vào đúng thời điểm và dùng ngôn từ chính xác…

Có một câu chuyện rất nổi tiếng miêu tả sự kiên nhẫn và thông thái của Đức Phật khi đối mặt với một người sân hận: có một người Bà la môn giàu có và quyền lực. Người này có thói quen dễ nổi giận, đôi khi không vì lý do gì. Ông ta thường gây gổ với tất cả mọi người. Nếu có ai đó bị xúc phạm mà không nổi giận, ông cũng sẽ tức giận vì điều đó.

Người Bà la môn này đã nghe rằng Đức Phật chẳng bao giờ nổi giận. Một ngày kia ông ta đến gặp Đức Phật và dùng lời lẽ thóa mạ Ngài. Đức Phật lắng nghe một cách kiên nhẫn và từ bi. Sau đó Ngài hỏi người Bà la môn:

– Ông có gia đình hay bạn bè người thân gì không?

– Vâng, tôi có rất nhiều bạn bè và người thân, người Bà la môn trả lời.

– Ông có đi thăm họ thường không? Đức Phật hỏi.

– Dĩ nhiên. Tôi thăm họ rất thường.

– Ông có mang quà tặng cho họ khi ông thăm viếng họ không?

– Chắc chắn rồi. Tôi chẳng bao giờ đến gặp họ mà không mang quà, người Bà la môn trả lời.

Đức Phật lại hỏi, khi ông tặng quà, giả sử họ không nhận. Ông sẽ làm gì với những món quà đó?

– Tôi sẽ mang chúng về và chia sẻ với gia đình tôi, người Bà la môn trả lời.

Lúc đó Đức Phật nói, cũng thế, ông đã cho tôi một món quà. Tôi không muốn nhận. Nó là của ông. Hãy mang nó về nhà và chia sẻ với gia đình.

Người Bà la môn rất xấu hổ khi ông hiểu và ngưỡng mộ lời khuyên từ bi của Đức Phật. Sau cùng, để đối trị sân hận chúng ta có thể nghĩ đến những lợi ích của tâm từ bi. Theo Đức Phật, khi ta thực hành tâm từ bi, ta sẽ ‘ngủ yên, thức dậy thoải mái, và có những giấc mơ đẹp. Được thân cận với chúng sanh và các loài khác. Chư thiên sẽ độ trì ta. [Nếu ta đầy lòng từ bi, thì ngay lúc đó] khói lửa, thuốc độc và vũ khí không thể làm hại ta. Ta thiền định dễ dàng. Nét thanh tịnh hiện trên gương mặt ta. Ta ra đi nhẹ nhàng và được tái sinh vào cõi giới cao nhất.’ Những viễn ảnh này không phải là dễ chấp nhận hơn là sự khổ sở, sức khỏe kém, và ác nghiệp mà tâm sân hận có thể mang đến cho ta sao?”[v]

Đó tinh thần của Phật Giáo, trở về lại với giới răn yêu kẻ thù mà Chúa Giê-su dạy, người Ki-tô hữu luôn có hình ảnh của Chúa Giê-su trước mắt, như là mẫu gương sống tinh thần này cách triệt để. Trên thánh giá, Chúa đã cầu nguyện với Cha trên trời: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

Đó là lời đầu tiên trên Thánh Giá Chúa Giê-su nói. Lời này ở trong bối cảnh quân lính dẫn Chúa Giê-su tới Đồi Sọ, và chúng đóng đinh Ngài vào Thánh Giá. Với Ngài cũng có hai tên gian phi cùng bị đóng đinh, một tên bên trái và một tên bên phải (x.Lc 23,33-34). Sự kiện này được cả bốn Tin Mừng thuật lại. Tuy nhiên, chỉ có Lu-ca nhắc đến câu nói của Chúa Giê-suLạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm. Đồi Sọ gợi lên một đồi trọc, không cây cối. Nơi hành hình được định vị ngoài thành thánh. Vùng đất thánh được bao bọc chung quanh, là một khu vực thánh không được xác nạn nhân làm ô uế. Nhưng nơi hành hình này gần cửa thành Giê-ru-sa-lem, vì chính quyền muốn những khách bộ hành trông thấy những nạn nhân hấp hối để răn đe. Như thế, chúng ta có trước mắt một khung cảnh là Đồi Sọ. Chúa Giê-su chẳng có tội tình gì, lại bị đóng đinh giữa hai tên gian phi, hai tội nhân bị kết án tử. Điều này diễn tả về sự nhục nhã hết sức mà Chúa Giê-su phải chịu, nhưng đó là số phận của người tôi trung“đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân” (Is 53,12). Nếu chúng ta lắng nghe cả bài thương khó của Lu-ca, sẽ thấy Chúa đã nhắc lại sấm ngôn này cho các môn đệ, khi ở trên đường từ Bữa Tiệc Ly đến vườn Ô-liu: “Vì Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Thánh Kinh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất”(Lc 22,37).

Chúa Giê-su bị liệt vào hàng phạm pháp. Nhưng tội gì? Không ai tìm thấy tội tình gì nơi Ngài để kết án được. Chính Phi-la-tô đã lên tiếng tất cả ba lần về sự vô tội của Chúa Giê-su trong Phúc Âm thánh Lu-ca. Lần thứ nhất: “Ta xét thấy người này không có tội gì” (Lc 23,4). Lần thứ hai: “Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi tố cáo” (Lc 23,14). Và lần thứ ba:“Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra”(Lc 23,22). Dân chúng có đồng ý với Phi-la-tô để thả Chúa Giê-su không? Tin Mừng đã cho chúng ta thấy lòng hiểm độc của dân chúng, đến nỗi cuối cùng Phi-la-tô phải lên tiếng: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!”(Mt 27,24), và sau đó thì sao? “Toàn dân đáp lại: Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” (Mt 27,25). Thật là dã man và bất nhân biết bao. Thay vì thả Chúa, một người vô tội và là một Ráp-bi tốt lành, thì dân chúng lại tha thứ cho một kẻ giết người, là Ba-ra-ba: “Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi!” (Lc 23,17). Tiếng la hét đầy bạo lực và đượm màu bất nhân, tiếng la hét của lòng người ác độc đẩy Đấng Cứu Thế tới thập giá chỉ dành cho kẻ phạm pháp. Tiếng la hét của thế giới đang bị thần dữ chế ngự và làm chủ. Tiếng la hét của một thế giới từ chối Chúa Giê-su, vị Vua đích thực, để theo một vị Vua trần thế: “Ông Phi-la-tô nói với họ: ‘Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?’ Các thượng tế đáp: ‘Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xê-da’.” (Ga 19,15). Là nạn nhân của sự thù hằn của những người có thế giá trong xã hội và tôn giáo thời đó, Chúa đã bị đẩy vào mảnh đất đầy sỉ nhục và phải đón nhận án tử từ đám đông dân chúng, với sự hậu thuẫn và xúi giục của nhóm người có thế giá. Một mạng lưới bất nhân đã được dệt lên, để bắt cho được kẻ thù không đội trời chung, dù kẻ thù đó là một người vô tội, tốt lành và theo lẽ thường cần được trân trọng và yêu quý. Trước mạng lưới đầy bất nhân này, cả người nắm chính quyền thời đó, dù không thấy tội gì để kết án Chúa, cũng phải chào thua: “Bấy giờ ông Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá” (Ga 19,16).

Thập giá trên đồi sọ. Chúa Giê-su bị đóng đinh treo lơ lửng trên đó. Con Thiên Chúa xuống thế làm người ngay từ ngày đầu tiên khi chào đời đã ở trong cảnh nghèo nàn của nhân loại, và khi chết đi cũng ở trong cảnh thê lương của nhân loại. Ngài đã sẵn sàng đón nhận tất cả. Sự đón nhận của tình yêu và lời xin vâng. Theo ý Cha một cách triệt để, đến nỗi bằng lòng chết đi và chết trên cây thập tự. Cái chết trên cây thập tự là một cái chết nhục nhã, chỉ dành cho những kẻ gây ra tội ác. Cái chết đó không ai muốn chọn cả. Còn Chúa, dù biết là đau đớn, nhục nhã và bất công, nhưng Chúa vẫn không chạy chốn thập giá trên đồi cao kia. Chân tay Ngài sẵn sàng dang ra, để con người đóng đinh Ngài vào thập giá. Phải chăng Ánh Sáng là Ngài đã thực sự bị bóng đêm thổi tắt? Phải chăng bóng đêm của tội lỗi và của thần dữ đã cướp đi mất Ánh Sáng vĩnh cửu kia? Thập giá đứng sừng sững trên đồi cao. Trong cơn đau đớn tột cùng của thân xác và của tâm hồn, đối diện với những đám lính vừa đóng đinh Ngài, và trong sự hiện diện của đám đông đi theo Ngài trên đường thương khó, Chúa Giê-su vẫn lên tiếng: Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm.

Đọc lại lần nữa lời cầu nguyện đầu tiên này, chúng ta ngạc nhiên thấy rằng, Chúa Giê-su đã không cầu nguyện để xin Cha ra tay công bằng xử phạt những kẻ bất nhân hãm hại Ngài, mà Ngài cầu nguyện với Cha, để xin Cha tha thứ cho họ. Đó chính là lô-gic của tình yêu Thiên Chúa. Lôgic này ngược hẳn với tất cả mọi lô-gic của cuộc đời. Đúng thật, sự khôn ngoan của con người không phải là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ý nghĩ của Thiên Chúa không phải là ý nghĩ của loài người. May thay!

Tha cho họ. Vậy họ là ai? Họ chính là những tên lính La Mã, những người làm theo lệnh của Phi-la-tô đóng đinh Chúa Giê-su cho đến chết. Họ chỉ làm theo mệnh lệnh, nhưng những lời chế nhạo, những đòn roi đã thể hiện sự tàn bạo, sự hung tợn trong chính họ. Họ còn là những đám đông dân chúng bị lầm lạc, bị mê hoặc, những kẻ ấy đã bắt Chúa Giê-su phải chết và ép buộc Phi-la-tô giết Ngài. Bọn người ấy chỉ vài ngày trước đã tung hô Chúa Giê-su là Vua (x.Mc 15,6-14, Mc 11,8-10), còn giờ thì dã tâm giết Chúa trên thập giá. Thật tàn bạo, thật khủng khiếp và thật bất công! Nhưng tất cả mọi sự xấu xa đó không cản bước chân của Đấng Cứu Độ, không làm cho bản chất của Đấng Cứu Độ thay đổi. Bản chất đó là tình yêu tràn đầy tha thứ, mà Chúa Giê-su đã loan báo. Đối với thần học gia Ratzinger, Đức Benedicto XVI, thì: “điều mà Chúa đã rao giảng trong Bài Giảng Trên Núi, Ngài đã thực hiện cách trọn vẹn. Chúa không biết ghen ghét là gì. Ngài không bao giờ hận thù cả. Ngài đã cầu nguyện cho kẻ đóng đinh Ngài”.[vi] Và “lời cầu nguyện đầu tiên của Chúa Giê-su với Chúa Cha là lời cầu bầu, xin tha thứ cho những lý hình của Người. Với lời này, Chúa Giê-su thực hiện điều mà chính Người đã dạy trong Bài Giảng Trên Núi khi Người nói ‘Nhưng Thầy bảo các con là những người đang nghe Thầy đây, hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho những người ghét các con’ (Lc 6,27), và Người cũng đã hứa với những người có thể tha thứ rằng ‘Phần thưởng của các con sẽ thật lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao’ (Lc 6,35). Bây giờ, từ trên Thánh Giá, Người không những chỉ tha thứ cho những kẻ hành quyết Người, mà còn trực tiếp thưa với Chúa Cha để cầu bầu cho họ”.[vii]

Tiếp đến, vế thứ hai của lời cầu nguyện là vì họ không biết việc họ làm. Nhưng làm sao Chúa Giê-su lại có thể nói họ không biết việc họ làm? Theo một góc độ nào đó thì họ phải biết việc họ đang làm, nhưng họ không nhận ra điều đó là tội ác tày trời. Đó chính là giết chết Con Một của Thiên Chúa. Nếu suy niệm kỹ lời này, chúng ta thấy, trong lời cầu xin Chúa Cha tha thứ tội lỗi cho những kẻ quay lưng lại với Ngài, những kẻ thi hành án tử hình, Chúa Giê-su đã thực sự biện hộ cho họ, và đó cũng là một cách minh chứng hùng hồn nhất rằng, điều Ngài đã dạy là hoàn toàn có thể: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Biết bao nỗi tủi nhục và đau đớn mà bọn lính La Mã đã gây ra cho Ngài, Ngài vẫn tha thứ cho họ. Ngài thậm chí còn tha thứ cho những kẻ quay lưng lại với Ngài. Đức Benedicto XVI đã suy niệm vế thứ hai này như sau: “Thực ra, theo lời Người, thì với những kẻ đóng đinh Người không biết việc chúng làm (x.Lc 23,34), Người đặt sự thiếu hiểu biết, sự ‘vô minh’ của họ như động lực của việc Người xin Chúa Cha tha thứ, bởi vì sự thiếu hiểu biết này mở đường cho việc hoán cải, như trường hợp những lời mà viên đội trưởng sẽ công bố về cái chết của Chúa Giê-su: ‘Người này thật sự là người công chính! Người này là Con Thiên Chúa’. Vẫn là một sự an ủi cho mọi thời đại và cho mọi người rằng trong trường hợp những kẻ không thực sự biết Người, những lý hình của Người, và trong trường hợp những kẻ biết, những kẻ kết án Người, Chúa dùng sự thiếu hiểu biết như lý do để xin tha thứ cho họ: Người coi nó như một cánh cửa có thể mở lòng chúng ta ra mà hoán cải”.[viii] Khi chúng ta, các tín hữu ý thức sống lời sống này của Chúa Giê-su, lời sống yêu thương và tha thứ cho kẻ thù, thì chúng ta đang bước vào không gian của Bài Giảng Trên Núi, nghĩa là chúng ta vượt ra khỏi tinh thần cũ “mắt đền mắt, răng đền răng” (Xh 21,24) của Cựu Ước, và sống tinh thần của Tân Ước, qua đó thực hiện sự công chính một cách hoàn hảo nhất:Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20).

Đọc lại câu chuyện Tê-pha-nô bị ném đá, với sự hiện diện của Sao-lô, sau này trở lại và trở thành vị Tông Đồ dân ngoại, chúng ta thấy được tâm tình cao quý của Tê-pha-nô: Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: ‘Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con’. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: ‘Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này’. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7,59-60). Đức Benedicto XVI đã suy niệm biến cố này như sau: “Đây là lời cuối cùng của ông. Sự so sánh giữa lời cầu nguyện xin tha thứ của Chúa Giê-su với lời cầu nguyện của vị tử đạo là điều đầy ý nghĩa. Thánh Tê-pha-nô thưa chuyện với Chúa Phục Sinh và xin Chúa đừng quy tội cho những kẻ ném đá ông khi nói về việc người ta giết ông – một hành động được xác định rõ ràng bằng thuật ngữ ‘tội này’. Trên Thánh Giá, Chúa Giê-su thưa cùng Chúa Cha và không những chỉ xin tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người, nhưng còn giải thích về những gì đang xảy ra”.[ix]

Thánh Âu-tinh đã diễn tả rất hay về mẫu gương tha thứ đặc biệt của thánh Tê-pha-nô, và ngài khuyên bảo mọi người nhìn vào tấm gương thánh nhân, một người dù bị ném đá như mưa nhưng vẫn cầu nguyện cho những kẻ đang giết mình: “Họ thì ném đá mà chẳng hề xin ngài thứ tha, còn ngài thì cầu nguyện cho họ. Đó chính là thái độ mà tôi muốn anh em nhìn xem. Hãy cố gắng vươn tới mức đó. Đừng để lòng mình cứ sà sà mặt đất hoài. Hãy nâng tâm hồn lên! Vâng, hãy leo cao tới mức đó. Hãy yêu thương thù địch. Vì nếu anh em không tha, thì tôi xin nói, chẳng những anh em đã xoá sạch khỏi lòng mình bài Kinh Chúa dạy, mà chính anh em cũng sẽ bị xoá tên khỏi sách sự sống”.[x] Lời của thánh Âu-tinh là một lời nhắc nhớ chúng ta ý thức sống tinh thần tha thứ. Khi sống tinh thần tha thứ, thì chúng ta, những người con cái dưới đất thấp này, có thể bước trên hành trình nên hoàn thiện, như lòng ao ước của Đức Ki-tô: Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Hoàn thiện là một con đường dài của đời người, cũng thế, tha thứ là bài tập cho cả cuộc đời.

Một mẫu gương mới là thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II. Ngày 13.05.1981, tại quảng trường thánh Phê-rô, Ali Agca – một sát thủ người Thổ Nhĩ Kỳ, đã nhắm vào Đức Thánh Cha và bóp cò. Một tiếng nổ chát chúa đã vang lên, Đức Thánh Cha đã bị trọng thương. Sau khi hồi phục, Đức Gio-an Phao-lô II nói: “Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi”. Vào năm 1983, Đức Gio-an Phao-lô II đã đến tận nhà tù, để thăm viếng và tha thứ cho Ali Agca. Trong một lá thư định gửi cho anh Ali Agca, Đức Thánh Cha viết: “Tại sao anh lại bắn tôi khi cả hai chúng ta đều tin vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất”. Vào đại năm thánh 2000, ngài đã xin Tổng Thống Ý cho anh được ân xá. Thật vậy, Đức Gio-an Phao-lô II đã được mọi người nhắc đến với lòng thương xót, như là một nét đặc biệt của ngài. Đức Hồng Y Schoenborn, trong tác phẩm Wir haben Barmherzigkeit gefunden – Chúng ta đã tìm thấy lòng thương xót, đã có một chương nói về Gio-an Phao-lô II – Đức Thánh Cha của lòng thương xót. Vào Chúa Nhật Phục Sinh 2005, Đức Gio-an Phao-lô II xuất hiện tại cửa sổ phòng của ngài và đã ban lời huấn từ trong ngày Chúa Phục Sinh, nhưng đó chỉ là một cử chỉ chúc lành đơn sơ không có lời nói. Ngài đã tỏ lộ một khuôn mặt đau đớn của tuổi già, nhưng tràn đầy tấm lòng nhân từ của một vị Cha chung đang chúc lành cho đoàn con. Đức Hồng Y Schoenborn đã thấy hình ảnh đó, và mong cho Đức Gio-an Phao-lô II có thể sống cho đến ngày Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót năm 2005. Điều ước mong này đã trở thành hiện thực, vào tối thứ bảy lúc 20.00, trước ngày lễ Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót, thư ký riêng của Đức Gio-an Phao-lô II, hiện giờ là Đức Hồng Y Stanislaw Dziwizs, đã dâng lễ cho Đức Gio-an Phao-lô II ngày Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót. Đức Gio-an Phao-lô II đã đón nhận một vài giọt máu Thánh và được rước Chúa Thánh Thể lần cuối cùng. Lúc 21.37, Đức Gio-an Phao-lô II đã trở về với Thiên Chúa, Đấng là nguồn của lòng thương xót. Năm 1997, khi ngài thăm Lagiewniki, nơi thánh Faustina Kowalska đã sống, thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã nói rằng: “Sứ điệp của lòng Chúa thương xót một cách nào đó đã ảnh trong triều đại Giáo Hoàng của tôi”.[xi]

Về tinh thần yêu thương và tha thứ cho kẻ thù, cũng có một giai thoại rất thú vị mà cha Arrupe đã trải nghiệm trong dịp ngài ghé thăm một tỉnh Dòng Tên ở Châu Mỹ La Tinh. “Cách đây vài năm, tôi có đến thăm Tỉnh Dòng Tên ở châu Mỹ La-tinh. Với một chút e ngại, người ta mời tôi dâng lễ ở ngoại ô, trong một khu dân cư nghèo nhất. Họ cho tôi biết có khoảng 100.000 người sống trong đầm lầy, vì vùng ngoại ô này được xây dựng trên một vùng đất trũng, mỗi lần mưa đều bị ngập hoàn toàn. Tôi nhận lời ngay, vì kinh nghiệm cho tôi biết khi thăm những người nghèo khổ, ta học hỏi được nhiều điều: ta làm ơn cho họ nhưng họ cũng dạy ta nhiều bài học. Thánh Lễ được cử hành trong một ngôi nhà nhỏ trống trải và ọp ẹp, không cửa rả: chó mèo ra vào tự do. Thánh Lễ bắt đầu với bài thánh ca do một tay ghi-ta xoàng đệm nhạc, nhưng đối với tôi, nó thật tuyệt! Nội dung bài hát là ‘Yêu là tự hiến bằng cách quên mình và tìm kiếm những gì khiến người khác được hạnh phúc. Sống vì yêu thương đẹp biết bao! Chiếm hữu để rồi cho đi, cao thượng dường nào! Cho đi niềm vui và hạnh phúc, cho đi bản thân mình, yêu là thế đấy!… Nếu bạn yêu tha nhân như chính mình và nếu bạn hiến thân cho tha nhân bạn sẽ thấy không có ích lợi nào mà bạn muốn giữ lại cho mình. Sống vì yêu thương, ôi đẹp biết bao!’ …

Bài giảng của tôi ngắn ngủi, đúng hơn đó chỉ là một cuộc đối thoại: họ đã kể cho tôi nghe những điều mà tôi ít có khi được nghe trong các bài giảng trọng thể, những điều hết sức đơn sơ nhưng sâu sắc và cao siêu. Một bà cụ, dáng người nhỏ bé, nói với tôi: ‘Thưa cha, cha có phải là bề trên của các cha này không? Nếu đúng vậy thì ngàn lần cám ơn cha, vì các cha Dòng Tên đã cho chúng con kho tàng quý giá chúng con đang thiếu, đã cho chúng con điều chúng con cần nhất là Thánh Lễ’.

Tiếp theo là một anh thanh niên đứng lên thành kính thưa rằng: ‘Thưa cha, xin cha hiểu cho chúng con rất biết ơn cha, vì các cha đây đã dạy cho chúng con biết yêu thương kẻ thù. Cách đây một tuần, con thủ sẵn một con dao để giết mấy người bạn mà con căm ghét. Nhưng sau khi nghe cha giảng Phúc Âm, con đã đi mua một cây cà-rem và đem cho người bạn con căm ghét đó!’.”

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

[i] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.139-140.

[ii] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.141 và x. LUZ U., Das Evangelium nach Matthaeus, 1.Teilband, s.316-317.

[iii] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.141-142.

[iv] Thiền sư Bhante Henelopa Gunaratana, Eight Mindful Steps to Hapinness – Bát chánh Đạo – con đường đưa đến hạnh phúc, t.84-85.

[v] Thiền sư Bhante Henelopa Gunaratana, Eight Mindful Steps to Hapinness – Bát chánh Đạo – con đường đưa đến hạnh phúc, t. 85-88.

[vi] RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, t.230.

[vii] BENEDIKT XVI, Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện, ban hành ngày Thứ Tư mùng 15 tháng 2 năm 2012, tại Vatican. Bản tiếng Việt của Phao-lô Phạm Xuân Khôi trong

[viii] BENEDIKT XVI, Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện.

[ix] BENEDIKT XVI, Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện.

[x] Trích bởi HAMMAN Adalbert G., trong Abrégé de la prière chrétienne, t.63-64.

[xi] X. SCHOENBORN C., Wir haben Barmherzigkeit gefunden, Herder Verlag, Freiburg 2009, t.19-20.

>> Mục Lục [12]

Bài 23: Giáo Hội Công Giáo, Giáo Hội của lòng Chúa thương xót

Giới răn yêu thương và thương xót không chỉ dành cho mỗi Ki-tô hữu, mà còn dành cho Giáo Hội Công Giáo trong ý nghĩa toàn bộ. Hơn nữa, nếu Giáo Hội là thân thể mầu nhiệm của Chúa Ki-tô, thì Giáo Hội cần phải mang trong mình chính lòng thương xót và tình yêu thương của Đức Ki-tô. Đó là một trong những điều nền tảng làm nên Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội Công Giáo không phải là một tổ chức bác ái xã hội, cũng không phải là một tổ chức phi chính phủ, mà chính là thân thể mầu nhiệm của Đức Ki-tô, Đấng là nguồn mạch của lòng thương xót.

Để cảm nhận và hiểu được được tinh thần lòng thương xót rất nền tảng và quan trọng này của Giáo Hội, chúng ta để Đức Thánh Cha Phanxicô hướng dẫn qua tông sắc năm Thánh lòng thương xót của Thiên Chúa: “Giáo Hội đã cảm thấy một trách nhiệm trở nên một dấu chỉ sống động của tình yêu Chúa Cha trên thế giới. Chúng ta nhớ lại những lời cay đắng của thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII khi khai mở Công Đồng, ngài đã chỉ ra con đường phải theo: ‘Giờ đây Hiền Thê của Chúa Kitô muốn sử dụng dược phẩm lòng thương xót chứ không phải là vũ khí của sự hà khắc… Giáo Hội Công Giáo, khi giơ cao ngọn đuốc chân lý Công Giáo tại Công Đồng Đại kết này, muốn thể hiện mình là một người mẹ yêu thương mọi người; kiên nhẫn, dịu dàng, từ tâm và nhân hậu với những con cái đã xa đàn’. Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói với cùng một mạch văn vào lúc bế mạc Công Đồng: “Chúng tôi muốn chỉ ra lòng bác ái đã là tính năng tôn giáo chủ yếu của Công Đồng này như thế nào… câu chuyện xưa về người Samaritanô nhân hậu đã là mô hình cho linh đạo của Công Đồng… một làn sóng tình cảm và ngưỡng mộ đã tuôn chảy từ Công Đồng trên thế giới hiện đại của nhân loại. Những sai lầm, cố nhiên, là bị lên án vì lòng bác ái đòi hỏi điều này không thua gì những đòi hỏi của sự thật, nhưng đối với chính những cá nhân chỉ có sự khuyên nhủ, lòng tôn trọng và tình yêu. Thay cho những chẩn đoán chán chường, là những phương dược khích lệ; thay cho những dự đoán kinh khủng, là những thông điệp của niềm tin được Công Đồng đưa ra cho thế giới ngày nay. Những giá trị của thế giới hiện đại không chỉ được tôn trọng nhưng được vinh danh, nỗ lực của thế giới được chấp nhận, nguyện vọng của nó được thanh tẩy và chúc lành… Một điểm khác nữa chúng ta phải nhấn mạnh là điều này: tất cả giáo huấn phong phú này được chuyển theo một hướng là sự phục vụ nhân loại, trong mọi điều kiện, trong mỗi nhược điểm và nhu cầu” (số 04).

Tiếp đến, Vị Cha Chung nhắc nhớ: “Lòng Thương Xót là nền tảng của đời sống Giáo Hội. Tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo Hội phải được bao bọc trong sự dịu dàng mà Giáo Hội đưa ra với các tín hữu hiện diện; không có gì trong lời rao giảng của Giáo Hội và trong chứng tá của Giáo Hội với thế giới có thể thiếu vắng sự thương xót. Chính sự khả tín của Giáo Hội được nhìn thấy trong cách thức Giáo Hội thể hiện tình yêu thương xót và trắc ẩn. Giáo Hội “có một ước muốn bất tận để tỏ lòng thương xót… Tuy nhiên, thiếu vắng chứng tá cho lòng thương xót, cuộc sống trở thành vô ích và vô sinh, như thể bị cô lập trong một sa mạc cằn cỗi. Đã đến lúc Giáo Hội phải đón nhận lời mời gọi hân hoan để thương xót lần nữa” (số 10).

Đức Phanxicô cũng đã nhắc đến thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II với tinh thần Giáo Hội cần rao giảng và sống và làm chứng tá cho lòng thương xót: “Hơn nữa, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II còn thúc đẩy việc loan báo khẩn cấp hơn và đưa ra những chứng tá cho lòng thương xót trong thế giới đương đại: ‘Xuất phát từ tình yêu dành cho con người, cho tất cả những gì là nhân bản và những gì, theo trực giác của nhiều người đương thời với chúng ta, là đang bị đe dọa bởi một mối nguy hiểm lớn lao. Mầu nhiệm của Chúa Kitô.. . buộc tôi phải rao giảng lòng thương xót như tình yêu từ bi của Thiên Chúa, đã được mạc khải trong cùng một mầu nhiệm của Chúa Kitô. Mầu nhiệm ấy cũng buộc tôi phải trông cậy và khẩn cầu lòng xót thương trong giai đoạn khó khăn, và quan trọng này trong lịch sử Giáo Hội và thế giới’ Giáo huấn này là thích hợp hơn hơn bao giờ hết và đáng được đề cao một lần nữa trong Năm Thánh này. Chúng ta hãy lắng nghe lời ngài một lần nữa: Giáo Hội sống một cuộc sống đích thực khi Giáo Hội tuyên xưng và rao truyền lòng thương xót – là các thuộc tính kỳ diệu nhất của Tạo Hoá và của Đấng Cứu Chuộc – cũng như khi Giáo Hội đem mọi người đến gần với suối nguồn lòng thương xót của Đấng Cứu Thế, mà Giáo Hội là người được ủy thác và phân phát” (số 11), và trong số 12 Đức Phanxicô viết: “Giáo Hội được ủy thác công bố lòng thương xót của Thiên Chúa, là trái tim đang đập của Tin Mừng, là điều phải tìm được cách thấm nhập trái tim và tâm trí của mỗi người. Hiền thê của Chúa Kitô phải rặp khuôn hành vi của mình như Con Thiên Chúa, Đấng đã vươn ra với mọi người không coi ai là ngoại lệ. Ngày nay, khi Giáo Hội đang gánh vác trọng nhiệm Tân Phúc Âm Hóa, chủ đề của lòng thương xót cần được tái đề xuất hết lần này đến lần khác với lòng nhiệt thành mới và các hoạt động mục vụ được canh tân. Tuyệt đối cần thiết cho Giáo Hội và cho sự khả tín của thông điệp Giáo Hội đưa ra là Giáo Hội phải sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và những cử chỉ của Giáo Hội phải chuyển tải lòng thương xót, để chạm vào con tim của tất cả mọi người và truyền cảm hứng cho họ một lần nữa để tìm ra con đường dẫn đến Chúa Cha. Chân lý đầu tiên của Giáo Hội là tình yêu của Chúa Kitô. Giáo Hội biến mình thành một người đầy tớ của tình yêu này và làm trung gian của tình yêu ấy cho tất cả mọi người: một tình yêu tha thứ và thể hiện bản thân nó như sự trao ban chính mình. Do đó, bất cứ nơi nào Giáo Hội hiện diện, lòng thương xót của Chúa Cha phải là hiển nhiên. Trong các giáo xứ, các cộng đồng, các hiệp hội và các phong trào, nói tắt một lời, là bất cứ nơi nào có những Kitô hữu, tất cả mọi người phải tìm được một ốc đảo của lòng thương xót”.

Với những giáo huấn của các Mục Tử, chúng ta xác tin rằng Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội của lòng thương xót. Chỉ khi Giáo Hội sống và mang trong mình tinh thần này, Giáo Hội mới thể hiện được tinh thần toàn bộ của Đức Ki-tô. Như thế, Giáo Hội sẽ nhận ra Đức Ki-tô hiện thân trong chính những phần của thân thể của Giáo Hội, và đặc biệt trong những anh chị em bất hạnh và nghèo nàn đang cần đến sự đỡ nâng. Chúa Giê-su đang hiện diện trong họ. Giáo Hội cần làm sống động Phúc Âm của lòng thương xót trong các lời nói, trong các bí tích và qua toàn bộ đời sống của Giáo Hội đối với lịch sử của nhân loại, và đối với từng tín hữu. Như thế, Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội của lòng thương xót. Vì thế, Giáo Hội Công Giáo trong cái nhìn tự phê bình, cần luôn trở về để tự chất vấn mình, xem Giáo Hội Công Giáo có là Giáo Hội của lòng thương xót như cần phải là như vậy hay không, cụ thể qua chính những gì Giáo Hội đang thể hiện? Một Giáo Hội không có lòng thương xót và không có lòng bác ái, thì Giáo Hội đó không còn là Giáo Hội của Chúa Giê-su Ki-tô nữa. Đó là ý tưởng của nhà thần học ĐHY. Walter Kasper.[1]

Thánh Âu-tinh đã dựa vào lời của Thánh Phao-lô nói về tầm quan trọng của đức mến: không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì (x.1Cr 13). Ở đây, theo Kasper, thánh Âu-tinh không chỉ nói về đức mến trong sự liên hệ đến cá nhân, mà còn liên hệ đến Giáo Hội trong sự hiệp nhất và yêu thương. Vì thế, nếu thiếu tình yêu thương trong cộng đoàn dân Chúa, thì sự hiệp nhất sẽ bị sứt mẻ, và những việc từ thiện như là những cành nho sẽ bị cắt đứt khỏi thân cây nho. Thánh Âu-tinh nhấn mạnh rằng, nếu không có tình yêu thương trong tinh thần tập thể, tinh thần của Cộng Đoàn, thì mọi sự khác sẽ chẳng là gì. Như thế, tình yêu thương, lòng thương xót và bác ái là một yếu tính của Giáo Hội, cũng như của niềm tin và của sự hiệp nhất trong Giáo Hội.[2] Để Giáo Hội Công Giáo có thể biểu lộ được yếu tính của mình là lòng thương xót, thì những phần tử của Giáo Hội cần thể hiện qua chính cuộc sống của họ, nghĩa là qua chính việc thực thi lòng thương xót trong đời sống thường ngày, với những người thân cận, với những người bất hạnh và khổ đau. Khi sống như vậy, những người Công Giáo thuộc về Giáo Hội đang làm cho bức tranh của Giáo Hội Công Giáo được hiển hiện với yếu tính quan trọng cần có.

Ngoài ra, lời quở trách nặng nề Giáo Hội sẽ phải đón nhận, nếu Giáo Hội không sống những gì Giáo Hội rao giảng. Giáo Hội của Chúa Ki-tô cần phải là chứng từ sống động của lòng thương xót mà Chúa Giê-su đã rao giảng và đã sống. Đó cũng là sứ mạng của Ngài. Thánh Giáo Hoàng Gio-an XXIII, trong biến cố khai mạc Công Đồng Vaticanô II, đã nêu rõ rằng, hôm nay Giáo Hội đặc biệt cần phải sử dụng vũ khí là lòng thương xót. Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã nhắc đến điều này trong tông huấn về lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài đã dành một chương để bàn về lòng thương xót của Thiên Chúa trong sứ mạng của Giáo Hội. Qua đó, Ngài muốn rút ra một kết luận quan trọng, Giáo Hội có trách nhiệm, làm chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa.[3] Còn đối với Đức Benedicto XVI, tông huấn đầu tiên của Ngài viết với tựa đềTình yêu của Thiên Chúa – Deus Caritas est. Tôi vẫn nhớ, khi tông huấn này vừa ra, nhận được một bản, tôi đã đọc một mạch với tất cả sự vui mừng và thích thú. Qua tông huấn này, tôi đã có được một khuôn mặt tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa. Ngài chính là vị Mục Tử nhân lành giàu lòng thương xót, Ngài đã bước theo từng con chiên trên hành trình cuộc đời, và đi vào những nơi con chiên đến, dù nơi đó có bần cùng đến đâu đi nữa. Cuối cùng, chính vị Mục Tử nhân lành giàu lòng thương xót này đã bước một bước vạn dặm, để trở nên một con chiên hiền lành, và hiến dâng mình làm của lễ để cứu chuộc muôn dân. Cũng là hình ảnh của vị mục tử nhân lành, chúng ta tìm thấy nơi Đức Thánh Cha Phanxicô. Dịp hành hương Rôma đầu năm 2014, có dịp ghé thăm tiệm sách Công Giáo nổi tiếng Ancora, tôi khám phá ra một Thánh Giá theo kiểu của Đức Thánh Cha Phanxicô. Trên Thánh Giá của Đức Thánh Cha, không có hình chịu nạn, mà là hình ảnh một mục tử vác một con chiên trên vai, phía sau lưng là đàn chiên và trên đầu có một con chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi mới được bầu làm giáo hoàng, Đức Phanxicô mang cây Thánh giá này. Đó cũng là Thánh Giá ngài vẫn mang từ khi làm giám mục ở Buenos Aires. Hình ảnh người mục tử và đàn chiên có nguồn gốc từ Cựu Ước, tượng trưng cho mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân riêng của Người. Chúa Giê-su đã dùng hình ảnh này trong dụ ngôn con chiên lạc, để chỉ Thiên Chúa là Đấng Chăn Chiên nhân lành đi tìm người tội lỗi. Có một người kia đi tìm con chiên lạc, và khi “tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai” (Lc 15,5).

Tác giả Tin Mừng Mát-thêu cũng thuật lại dụ ngôn này, và nói về Thiên Chúa trên trời là người Cha “không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (18,14). Như thế, Tin Mừng Mát-thêu nói đến trách nhiệm của các vị lãnh đạo đối với những thành viên nhỏ bé, không có tiếng nói trong cộng đoàn. Con chiên lạc được tìm lại là biểu tượng của ơn cứu độ (x.Mc 4,6-7; Gr 23,1-4; Ed 34,11-16). Thánh Giá cũng là dấu chỉ của ơn cứu độ. Đức Giê-su còn nhấn mạnh đến niềm vui mừng của Thiên Chúa khi tìm lại được người tội lỗi; và Người cũng mời gọi thính giả chia sẻ niềm vui đó (x.Lc 15,25-32).

Về phương diện thần học, dây Pallium mà Giám mục Rôma khoác lên vai, được đan kết bằng lông chiên thật. Và lông chiên là biểu tượng cho chiên bị lạc lối, yếu ớt và đau bệnh. Người mục tử sẽ vác chiên ấy trên đôi vai mình để đưa đến nguồn suối sự sống. Đối với Giáo Phụ ngày xưa, dụ ngôn con chiên lạc mà mục tử tìm thấy nơi sa mạc chính là hình ảnh mầu nhiệm Chúa Ki-tô và Hội thánh. Mỗi một người trong chúng ta chính là những con chiên lạc trong sa mạc không còn biết lối về. Con Thiên Chúa sẽ không thể để điều này xảy ra; Ngài không thể bỏ mặc con người trong tình trạng thê thảm như thế. Ngài đã từ bỏ vinh quang thiên quốc và bước đi bằng chính đôi bàn chân trần để tìm kiếm những con chiên này và theo đuổi chúng đến tận cùng của con đường Thánh Giá. Ngài mang chúng trên đôi vai mình và mang cả nhân loại; Ngài vác tất cả chúng ta trên vai – Ngài chính là Mục Tử nhân lành thí mạng vì đàn chiên. (x.Bài giảng Chúa nhật của Đức Benedicto XVI , 24.4.2005 tại quảng trường thánh Phê-rô).

Theo tinh thần của Đức Ki-tô, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn tả lòng thương xót đặc biệt của ngài với đàn chiên, đặc biệt với những con người khổ đau và bất hạnh. Hình ảnh ngài ôm hôn một người mặt dị dạng ở quảng trường thánh Phê-rô đã được truyền đi khắp nơi trên thế giới. Hình ảnh ngài cử hành Thánh Lễ rửa chân ở tại một nhà tù cho 12 trẻ vị thành niên, trong số đó có một cô gái người Hồi Giáo, trong năm đầu tiên trên tư cách Giám Mục Rôma, đã làm cho mọi người ngạc nhiên. Đó chính là tinh thần của lòng thương xót mà Chúa Giê-su mời gọi thực thi: “Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,36). Rồi Đức Thánh Cha còn quan tâm đến thăm những người vượt biển lục địa Châu Phi đến một hòn đảo của Ý Đại Lợi, như là một lời thức tỉnh cho mọi người về lòng thương xót của Chúa mời gọi: “Ta là khách lạ, các người đã đón rước” (Mt 25,35). Lòng thương xót của Thiên Chúa cũng rất cụ thể, khi chính Đức Thánh Cha đã từng gọi điện thoại đến những người bất hạnh, để chia sẻ và thoa dịu nỗi khổ đau của họ. Trong dịp ngài thăm Phi-Luật-Tân đầu năm 2015, ngài đã gặp các em bé bị bỏ rơi và là trẻ bụi đời, ngài đã nghe lời tâm tình của em gái Glyzelle Iris Palomar. Em là nạn nhân của sự bỏ rơi và em phải sống ở ngoài đường phố. Cùng với các bạn khác, em buộc phải tự kiếm sống, không cha mẹ, không nhà cửa và phải ngủ ngoài đường phố. Phần lớn các em bị lừa vào tện nạn mãi dâm và ma túy. Một tổ chức phi chính phủ do một cha Dòng Tên thành lập, đã cứu Glyzelle và nhiều em khác ra khỏi cảnh sống ngoài đường phố, và hiện Glyzelle và các bạn được chăm sóc ở đó. Trong cuộc sống bụi đời, em đã chứng kiến nhiều đồng bạn bị cha mẹ bỏ bê đã xa vào những cạm bẫy cuả sự dữ, như nghiện ngập hoặc nạn mãi dâm. Trong cuộc tiếp kiến Đức Thánh Cha ở Phi-luật-tân, khi em đang đọc bài đã được dọn sẵn để dâng lên vị cha chung, bỗng chợt em không thể đọc tiếp bài đó, ngẩng lên nhìn Đức Thánh Cha Phanxicô, em đặt câu hỏi: “Bakit po pumapayag ang Diyos na may ganitong nangyayari?- Tại sao Chuá lại để xảy ra như vậy?”

“Tại sao Chuá đã cho phép những sự ấy xảy ra, dù đó không phải là lỗi cuả những đứa trẻ vô tội?” Nói tới đây, em nhắm nghiền mắt lại và nức nở khóc.

Cố gắng lắm, em Glyzelle mới kết thúc bằng một câu hỏi thứ hai “At bakit konti lang ang tumutulong sa amin? – Và tại sao lại ít có người giúp chúng con như thế ?”

Giây phút đó, Đức Thánh Cha đã đứng dậy và bước xuống gần em bé gái. Ngài đã rưng rưng nước mắt và ôm chặt Glyzelle vào lòng. Trong bài đáp lời em Glyzelle, Đức Phanxicô đã nói: “Em ấy là người duy nhất đã hỏi một câu hỏi mà không ai có thể trả lời được. Và em ấy cũng đã không diễn tả hết được bằng lời lẽ nhưng đã bằng những giọt nước mắt”. “Tại sao con trẻ có nhiều đau khổ như thế? Tại sao một đứa bé phải chịu đau khổ?” Ngài đặt lại câu hỏi. “Chỉ khi nào mà một trái tim không thể tìm được câu trả lời và bắt đầu khóc, lúc đó chúng ta mới có thể hiểu được”. Ngài nói tiếp.

Và Đức Thánh Cha kêu gọi những người trẻ cần phải học cách để mà khóc: “Cha mời gọi từng người trong chúng con ở đây hãy tự hỏi mình, rằng tôi đã học được cách khóc chưa, khóc như thế nào? Tôi đã học để mà khóc cho một ai đó bị bỏ rơi bên lề đường chưa? Tôi đã khóc cho một ai đó đang bị nghiện ngập chưa? Tôi đã khóc cho một ai đó bị lộng hành chưa?”
“Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su đã khóc”. Đức Thánh Cha nói. “Ngài đã khóc cho một người bạn vừa mới chết, Ngài đã khóc trong lòng cho một gia đình vừa mới mất đứa con, Ngài đã khóc khi nhìn thấy một bà goá nghèo đem chôn đứa con trai, Ngài đã rơi nước mắt, động lòng trắc ẩn, khi nhìn thấy đám đông không có ai chăn sóc”. Đức Thánh Cha nhấn mạnh hình ảnh Chúa Giê-su, Ngài đã không sử dụng lòng từ bi theo kiểu thế gian, như là dừng lại một vài giây để ban phát tiền bạc hoặc những của cải vật chất. Nhưng Chúa Ki-tô đã dành trọn thời gian để lắng nghe và an ủi, để đón nhận và chia sẻ với người dân của mình bằng trái tim cảm thông và yêu thương. Giai thoại về cuộc gặp gỡ này là một hình ảnh rất đẹp của vị chủ chăn của Giáo Hội Công Giáo sống tinh thần thương xót. Thật vậy, những gì các vị chủ chăn thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa, là một chứng từ sống động cho cả Giáo Hội cần luôn ý thức rao giảng, thực thi lòng thương xót của Thiên Chúa. Đó cũng là sứ mạng của Giáo Hội.

Rao giảng về lòng thương xót của Thiên Chúa. Đó là trách nhiệm đầu tiên Giáo Hội cần làm. Giáo Hội cần rao giảng về lòng thương xót của Thiên Chúa ngay trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, mà Thiên Chúa đang bị cho ra rìa, và nhiều người đang lờ đi không nhìn đến Thiên Chúa, hay nói khác đi nhiều người đang sống trong một tâm thức: Thiên Chúa đâu có giúp họ làm giàu và đâu có ảnh hưởng gì trong cuộc sống của con người. Thiên Chúa không còn cần thiết nữa. Quay mặt đi và không quan tâm đến Ngài là thượng sách. Rất nhiều người trẻ ở Tây Phương đang mang tâm thức này. Họ đang bị những khuynh hướng tục hoá tân thời lôi kéo ra xa khỏi Thiên Chúa. Ngay trong xã hội tục hoá tinh vi này, lòng thương xót của Thiên Chúa cần được rao giảng nhiều hơn bao giờ hết. Chính trong bối cảnh xã hội này, mà chúng ta cần lắng nghe lại lời của Thánh Phê-rô: “Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1P 3,15).

Khi rao giảng lòng thương xót của Thiên Chúa, Giáo Hội cần chú ý không diễn tả một khuôn mặt Thiên Chúa như là một quan toà nghiêm khắc, cũng không trình bày một Thiên Chúa quá dễ dãi, đến nỗi chẳng ai phải lo sợ gì với Ngài cả, và tránh cách trình bày khuôn mặt Thiên Chúa với những nét trừu tượng mang tính triết lý. Thiên Chúa đó là Thiên Chúa của các triết gia mà thôi. Giáo Hội cần rao giảng và diễn tả một cách sống động và thực tế về khuôn mặt nhân từ hay thương xót của Thiên Chúa, như trong Thánh Kinh đã nói về Ngài như là người Cha nhân từ: Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an” (2Cr 1,3), và “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta” (Ep 2,4). Giáo Hội cần kể lại cho mọi người nghe câu chuyện của Thiên Chúa đã thương xót nhân loại như thế nào, những câu chuyện của lòng thương xót trong Cựu Ước và trong Tân Ước, như Chúa Giê-su đã kể trong các dụ ngôn và đã thực thi trong cuộc sống của Ngài. Cao điểm của lòng thương xót mà Thiên Chúa biểu lộ là con đường thương khó và Thánh Giá của Chúa Giê-su, Giáo Hội cần nêu bật cao điểm này.

Ngoài ra, việc rao giảng về lòng thương xót của Thiên Chúa đi đôi với việc Tân Phúc Âm hoá. Ở đây, cũng nên nói rằng, chúng ta không rao giảng về một Phúc Âm mới nào, mà chúng ta vẫn rao giảng Phúc Âm của Chúa Giê-su, nhưng rao giảng trong một cách thức mới liên hệ đến cuộc sống và hoàn cảnh sống mới của con người. Chúng ta chỉ có thể chạm được trái tim của người nghe, khi chúng ta rao giảng về Thiên Chúa, Đấng hiện diện trong những khổ đau và bất hạnh của con người như là một người Cha giàu lòng thương xót, nghĩa là qua lời rao giảng chúng ta giúp cho người nghe khám phá ra hình ảnh của Thiên Chúa nhân hậu có mặt trong lịch sử cuộc đời của họ. Vì thế, lời rao giảng của chúng ta sẽ chẳng tìm thấy ý nghĩa, nếu chúng ta chỉ có phê bình chỉ trích thế giới hiện đại với những hậu quả tiêu cực, mà chúng ta cần phải rao giảng một Thiên Chúa nhân từ, Đấng ngự trị trên các đám mây và bóng đêm, Đấng cho mưa xuống trên người công chính, lẫn người tội lỗi. Đấng giàu lòng thương xót thấu biết từng người trong chúng ta, và Ngài biết mỗi người chúng ta đang cần gì (x.Mt 6,8 và 32).

Với những người sống xa Chúa và Giáo Hội, chúng ta cần rao giảng cho họ về một Thiên Chúa từ nhân như người Cha luôn sẵn sàng đón nhận đứa con thứ trở về, trao lại cho con phẩm giá cao quý, dù quá khứ đời con thế nào đi nữa. Người Cha giàu lòng thương xót đó như người Samaritanô nhân hậu, luôn dừng bước bên những người bất hạnh bị nạn đang nằm ở bên đường, Ngài cúi xuống để chăm sóc, băng bó vết thương và cứu chữa. Ngài có một tấm lòng cao quý luôn rung động và yêu thương con cái của mình. Tình yêu và lòng nhân hậu này vượt trên mọi bóng đêm, mọi quá khứ tội lỗi, và không bao giờ lắc đầu hay lờ đi, khi thấy những người khổ đau bất hạnh. Người Cha nhân hậu này cũng là người mục tử nhân lành sẵn sàng bỏ hết mọi công việc, và để cả 99 con chiên khác trong chuồng và lên đường đi tìm con chiên lạc. Khi tìm thấy, Ngài vui mừng vác chiên trở về, và nỗi vui mừng về một con chiên tội lỗi trở về lớn hơn niềm vui của 99 con chiên không cần hối cải (x.Lc 15,3-7).

Khi Giáo Hội xác tín mạnh mẽ về lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa, là lúc Giáo Hội rao giảng chân lý sâu thẳm nhất về Thiên Chúa, cũng như rao giảng chân lý sâu thẳm nhất về con người. Chân lý sâu thẳm nhất về Thiên Chúa hệ tại ở chỗ, Thiên Chúa là tình yêu tự hiến mình và ban tặng, và là tình yêu luôn sẵn sàng tha thứ cho con cái của mình. Chân lý sâu thẳm nhất về con người mang ý nghĩa, Thiên Chúa trong tình yêu đã tạo dựng nên con người cách tuyệt vời. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người, dù cho con người có lìa xa Ngài. Hơn nữa, Thiên Chúa với lòng thương xót còn chuộc lại con người, và gầy dựng lại phẩm giá cao quý của con người. Thiên Chúa đã đi xuống tận chỗ thấp nhất và bần cùng nhất mà con người đã rơi xuống, để kéo con người lên, và đưa con người trở về lại với trái tim hay thương xót của Ngài. Và ở bên Ngài, con người được nghỉ ngơi bồi dưỡng trong an bình.[4] Lời rao giảng về lòng thương xót thật tuyệt vời, nhưng Giáo Hội không chỉ dừng ở đó, mà Giáo Hội cần thực thi lòng thương xót với con cái của mình, cụ thể qua các bí tích và đặc biệt bí tích Hoà Giải.

Tất cả các bí tích đều là bí tích của lòng thương xót, đặc biệt là bí tích Rửa Tội và bí tích Hoà Giải. Khi nhận được bí tích Rửa Tội, tội lỗi được tha thứ (x.Cv 2,38; 1Cr 6,11; Ep 1,7; Cl 1,14), nên bí tích Thanh Tẩy là bí tích của lòng thương xót. Điều này cũng đúng với bí tích Xức Dầu Thánh (x.Gc 5,15). Giáo Hội thời đầu tiên đã trải nghiệm, các tín hữu sau khi được nhận lãnh bí tích Rửa Tội, thì lại rơi vào trong tình trạng tội lỗi như trước, đó là một kiểu ngựa quen đường cũ, vì thế Giáo Hội được Chúa Giê-su trao quyền thực hiện bí tích Hoà Giải, để các tín hữu có thể chạy đến xưng thú tội lỗi và nhận được ơn tha thứ và sức mạnh từ Thiên Chúa. Như thế, bí tích Hoà Giải là bí tích của lòng thương xót, mà qua đó Thiên Chúa luôn và tiếp tục tha thứ cho con cái của Ngài, và ban cho con cái sức mạnh mới để lại bắt đầu bước đi trên hành trình Đức Tin.[5]Trong bài Giáo Lý về bí tích Hoà Giải, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “tất cả chúng ta đều biết, chúng ta mang đời sống này trong những bình bằng sành (2Cr 4,7), chúng ta vẫn có thể bị khuất phục bởi cám dỗ, đau khổ, và cái chết, vì tội lỗi, chúng ta thậm chí có thể bị mất đời sống mới của mình. Vì lý do đó mà Chúa Giê-su đã muốn rằng, Hội Thánh sẽ tiếp tục công việc cứu độ của Người cho ngay cả những phần tử của mình, đặc biệt với bí tích Hòa giải và bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, là hai bí tích có thể được kết hợp dưới danh hiệu các bí tích Chữa Lành… cử hành bí tích Hòa Giải có nghĩa là được ôm ấp trong một vòng tay ấm áp: là vòng tay của lòng thương xót vô cùng của Chúa Cha. Chúng ta hãy nhớ lại dụ ngôn rất đẹp này về người con bỏ nhà ra đi với số tiền thừa kế; anh ta đã phung phí tất cả số tiền ấy, và sau đó, khi không còn gì nữa, anh ta quyết định trở về nhà, không phải như một người con, mà như một đầy tớ. Trong lòng chất đầy tội lỗi và nhiều hổ thẹn. Điều ngạc nhiên là khi anh bắt đầu lên tiếng để xin được tha thứ, thì người cha không để cho anh nói, mà ôm chầm lấy anh, hôn anh, và cho dọn một bữa tiệc ăn mừng. Nhưng tôi nói với anh chị em, mỗi khi chúng ta xưng tội, Thiên Chúa cũng ôm chúng ta, Thiên Chúa cũng ăn mừng! Chúng ta hãy tiến bước trên con đường này”.[6] Và trong tông sắc năm Thánh lòng thương xót của Thiên Chúa, Đức Phanxicô viết: “Chúng ta hãy đặt bí tích Hoà Giải ở trung tâm một lần nữa sao cho bí tích này giúp mọi người chạm vào sự hùng vĩ của lòng thương xót Chúa với những đôi tay của riêng họ. Với mỗi hối nhân, bí tích này sẽ là nguồn mạch của bình an nội tâm thật sự” (số 17).

Còn đối với các thừa tác viên của Thiên Chúa, ngồi trong toà Hoà Giải, Đức Thánh Cha Phanxicô khuyên nhủ rằng: “Tôi nhắc lại với các linh mục rằng, tòa giải tội không phải là phòng tra tấn nhưng là nơi dành cho lòng thương xót của Chúa là điều khích lệ chúng ta làm điều lành càng nhiều càng tốt” (Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, số 44). Trong tông sắc năm Thánh lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài nhấn mạnh hơn nữa: “Tôi sẽ không bao giờ mệt mỏi nhấn mạnh rằng các cha giải tội là dấu chỉ xác thực cho lòng thương xót của Chúa Cha. Chúng ta không tự động trở thành những cha giải tội tốt. Chúng ta chỉ trở thành cha giải tội tốt khi, trên tất cả mọi sự, chúng ta để cho mình thành những hối nhân tìm kiếm lòng thương xót của Ngài. Chúng ta không bao giờ được quên rằng là cha giải tội nghĩa là dự phần vào chính sứ mệnh của Chúa Giêsu để trở nên một dấu chỉ cụ thể cho sự bất biến của tình yêu tha thứ và cứu rỗi của Thiên Chúa. Các linh mục chúng ta đã nhận được ân sủng của Chúa Thánh Thần, để tha tội, và chúng ta chịu trách nhiệm về việc này. Không ai trong chúng ta nắm giữ quyền lực trên Bí Tích này; thay vào đó, chúng ta là những tôi tớ trung tín của lòng thương xót Chúa qua Bí Tích ấy. Mỗi cha giải tội phải đón nhận các tín hữu tương tự như người cha trong dụ ngôn người con hoang đàng: một người cha chạy ra ngoài để gặp con trai mình bất kể nó đã phung phí hết phần sản nghiệp của nó. Các cha giải tội được mời gọi để ôm người con trai ăn năn đang trở về nhà và diễn tả niềm vui được có lại người con ấy. Chúng ta cũng đừng bao giờ mệt mỏi đi ra ngoài với người con trai còn lại, là người đứng bên ngoài, không thể vui mừng nổi, để giải thích với nó là phán đoán của nó quá hà khắc, không công bằng và vô nghĩa dưới ánh sáng lòng thương xót vô biên của người cha. Cầu xin cho những cha giải tội đừng đặt ra những câu hỏi vô ích, nhưng giống như người cha trong dụ ngôn, hãy ngắt ngang bài phát biểu đã được chuẩn bị trước của người con hoang đàng; cầu xin cho các cha giải tội học được cách chấp nhận những lời kêu gọi giúp đỡ và lòng thương xót tuôn chảy từ trái tim của mỗi hối nhân. Nói tóm lại, các cha giải tội được mời gọi là một dấu chỉ về sự ưu việt luôn luôn, ở khắp mọi nơi, và trong bất kể mọi tình huống, của lòng thương xót” (số 17).

Tiến bước trên con đường của lòng thương xót với tinh thần theo gương Chúa Giê-su, Giáo Hội cần xây dựng một nền văn hoá của lòng thương xót trong đời sống của mình, như Kasper diễn tả. Chỉ rao giảng về lòng thương xót trên môi miệng, dĩ nhiên không thể đủ được. Cũng thế, khi Giáo Hội rao truyền sự thật, thì Giáo Hội cần sống theo sự thật, cần đến cùng ánh sáng, để mọi người khác nhìn vào sẽ nhận ra Giáo Hội thực thi lòng thương xót và sống theo sự thật ở trong Thiên Chúa: “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3,21).

Vì thế, sứ điệp về lòng thương xót mà Giáo Hội rao giảng cần được thấm nhuần vào trong thực tế, cũng như ảnh hưởng vào chính bầu khí sinh hoạt và phục vụ của Giáo Hội. Nếu nhìn lại Giáo Hội tiên khởi, chúng ta thấy rằng, Giáo Hội thời đầu tiên đã để lại chứng từ sống động về lòng thương xót, khi Giáo Hội đã luôn chú tâm nâng đỡ những quả phụ, những trẻ mồ côi, những người bệnh tật, những kẻ yếu đuối, những người nghèo khổ và những ai mất khả năng làm việc. Các cộng đoàn thời đó luôn phục vụ những người tù nhân, nâng đỡ những người nô lệ, và sẵn sàng đón những khách bộ hành không nơi nương tựa. Tertulian đã thuật lại rằng, những lo lắng và chăm sóc của người Ki-tô hữu dành cho những người nghèo khổ và bất hạnh đã làm cho thế giới ngoại giáo thời đó ngạc nhiên vô cùng. Đến nối họ đã nói về người Ki-tô hữu: “Hãy nhìn kìa, họ thương nhau đến thế!” Từ thế kỷ thứ 4, trong Giáo Hội đã có những nhà chăm sóc người bệnh, những nhà đón nhận khách bộ hành, cũng như những nơi chăm sóc người nghèo khổ. Sau đó, nhiều dòng tu đã được thành lập với sứ mạng rõ rệt là chăm sóc người bệnh tật, chú tâm đến những người nghèo khổ, các trẻ em mồ côi… Đến hôm nay, tinh thần của lòng thương xót mà Giáo Hội thực thi vẫn còn ảnh hưởng trong đời sống thực tế. Và với tinh thần của lòng thương xót Giáo Hội đã có một ảnh hưởng sâu rộng trong văn hoá của Châu Âu cũng như trong nền văn hoá của nhân loại cho đến ngày hôm nay, dù cho sự tục hoá lan tràn mỗi ngày nhiều hơn trong xã hội.[7]

Nếu Giáo Hội không chỉ rao truyền Tin Mừng của Chúa Giê-su về Thiên Chúa là Cha nhân hậu luôn tha thứ, mà còn sống Tin Mừng đó, thì Giáo Hội luôn chú ý đến người thấp cổ bé miệng, đến những người nghèo khổ và bần cùng, đến những người bệnh tật và khiếm khuyết, đến những người vô gia cư và những người di dân, đến những người nghiện ngập và những người xấu số nhiễm vi trùng Sida, cũng như Giáo Hội chú tâm đến những người tù nhân và những phụ nữ phải làm nghề bán thân xác, vì họ không còn có thể làm gì để nuôi thân, nuôi gia đình, nên cuối cùng đã phải chấp nhận một số phận thảm thê nhất, là bán chính thân xác mình. Chắc chắn Giáo Hội luôn đau đớn khi thấy tội lỗi tràn lan, nhưng Giáo Hội cần luôn tỏ lòng thương xót với những người tội lỗi. Trong tinh thần theo bước Chúa Giê-su, Giáo Hội không bao giờ được phép là Giáo Hội của người giàu, của những người có thế giá, cũng như của các chính trị gia. Đối với Giáo Hội, viễn tượng ưu tiên cho người nghèo khổ là một điều nền tảng và quan trọng mà Giáo Hội cần nhìn đến. Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông huấn Niềm vui của Tin Mừng có nói về tinh thần truyền giáo của Giáo Hội như sau: “Nếu toàn thể Hội Thánh thừa nhận động năng truyền giáo này, thì chúng ta phải đi đến với tất cả mọi người mà không trừ ai. Nhưng phải ưu tiên cho ai? Khi đọc Tin Mừng, chúng ta thấy một định hướng rõ ràng: không phải những bạn bè và láng giềng giàu có, nhưng trên hết là những người nghèo khổ và tật nguyền, những người thường bị khinh miệt và lãng quên, những người không có gì để trả lại cho anh em (x.Lc 14,14). Không còn gì để nghi ngờ hoặc giải thích, vì chúng chỉ làm yếu đi sứ điệp quá rõ ràng này. Hôm nay và mãi mãi, người nghèo là những người nhận được đặc quyền của Tin Mừng, và việc loan báo Tin Mừng một cách nhưng không cho họ là dấu chỉ của vương quốc mà Chúa Giê-su đã đến để thiết lập. Phải nói thẳng rằng, có một sự liên kết bất khả phân ly giữa Đức Tin và người nghèo. Chúng ta đừng bao giờ bỏ rơi họ” (số 48). “Tôi muốn có một Hội Thánh bị bầm dập, bị tổn thương và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, còn hơn một Hội Thánh bệnh hoạn vì đóng cửa và thanh nhàn bám víu vào sự an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Hội Thánh chỉ quan tâm đến việc nằm ở trung tâm và cuối cùng bị vướng vào một mạng lưới của những cố chấp và thủ tục” (số 49).

Trong Thánh Lễ Chúa chiên lành của Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh, năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã truyền chức Linh mục cho 13 phó tế. Trong bài giảng Ngài đã thiết tha mời gọi các thừa tác viên của Chúa: “Ở đây cha muốn dừng lại, và xin các con, vì tình yêu Chúa Giê-su Ki-tô: đừng bao giờ mệt mỏi thương xót! Các con hãy có khả năng tha thứ như Chúa, là Đấng không đến để lên án, nhưng để tha thứ! Các con hãy thương xót thật nhiều! Và nếu có áy náy vì là những linh mục quá tha thứ, thì hãy nhớ đến vị linh mục thánh kia đến trước Nhà Tạm và thưa với Chúa rằng: ‘Lạy Chúa, xin tha thứ cho con, nếu con đã tha thứ nhiều quá. Nhưng mà chính Chúa đã làm gương xấu cho con đấy chứ!’ Cha nói thật với các con, cha đau lòng lắm, khi thấy giáo dân không đến xưng tội vì họ đã từng bị quất bằng gậy, bị la mắng trong tòa giải tội. Thật là xấu. Họ đã cảm thấy cửa nhà thờ đóng sầm trước mặt họ. Cha xin các con, chớ làm như vậy! Thương xót! Thương xót! Mục Tử Nhân Lành vào qua cửa, và cửa của lòng xót thương là các vết thương của Chúa: nếu các con không bước vào chức thừa tác của các con qua các vết thương của Chúa, thì các con sẽ không phải là các mục tử tốt lành”.

Thật là quý báu, khi trong đời sống của Giáo Hội, chúng ta vẫn thấy biết bao nhiêu người con, biết bao nhiêu dòng tu, biết bao nhiêu tổ chức đã, đang và tiếp tục thực thi lòng thương xót, và luôn ưu tiên nâng đỡ những người thấp cổ và bé miệng, những người bất hạnh và nghèo khổ. Đó là văn hoá của lòng thương xót luôn cần được nở hoa thơm ngát. Hương thơm này, chúng ta có thể ngửi thấy nơi các nhà Arche của Jean Vanier, trong đó các anh chị em bị bệnh tâm thần được yêu thương và được chăm sóc thật chu đáo. Hương thơm đó cũng toả lan từ trong các ngôi nhà nhỏ bé đơn sơ của các nữ tu sống theo linh đạo của Mẹ Têrêsa Can-cut-ta, trong đó biết bao trẻ mồ côi đã từng bị dục vào thùng rác, từng bị cha mẹ bỏ rơi khi mới chào đời, được các nữ tu đón nhận, chăm nom và nuôi nấng, để các em được lớn lên như những em bé tràn đầy ân phúc của Thiên Chúa.[8] Chính Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã cảm nhận được hương thơm của lòng thương xót qua tinh thần phục vụ của Giáo Hội, khi ngài nói trong tông huấn Niềm vui của Tin Mừng: “Mặc dù làn sóng thế tục đã tràn ngập xã hội chúng ta, ở nhiều quốc gia – kể cả những nơi mà Ki-tô Giáo là thiểu số – Hội Thánh Công Giáo được coi là một tổ chức đáng tin cậy theo dư luận quần chúng, được tin cậy trong tất cả những gì liên quan đến lĩnh vực đoàn kết và quan tâm đến những người nghèo khổ nhất. Nhiều lần, Hội Thánh phục vụ như trung gian hòa giải để tạo sự thuận lợi cho việc giải quyết những vấn đề ảnh hưởng đến hòa bình, hòa hợp, môi trường, bảo vệ sự sống, nhân quyền và quyền công dân…” (số 65).

Tuy nhiên, trong Giáo Hội, văn hoá của lòng thương xót không chỉ được giới hạn trong việc giúp đỡ về phương diện vật chất, mà cần được diễn tả qua chính tương quan của các tín hữu với nhau, nghĩa là cung cách hành xử của tín hữu với nhau luôn cần phải toả hương lòng thương xót. Thánh Phao-lô đã nhìn thấy những bè phái chia rẽ trong Giáo Hội (x.1Cr 1,10-17), và ngài đã lên tiếng: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau” (1Cr 1,10). Hơn nữa, thánh nhân còn cảnh báo và kêu mời các tín hữu cần biết yêu thương nhau, chứ đừng cắn xé và chia rẽ: “Quả thế, thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy!” (Gl 5,13-15).

Các Giáo Phụ cũng đã lên tiếng chỉ trích những cách sống thiếu yêu thương giữa các tín hữu với nhau. Gregor von Nazianz đã kêu than cách cay đắng với những lời đau đớn về cách sống thiếu yêu thương và hay cãi vã trong Giáo Hội, đặc biệt giữa các Giáo Sĩ: “Thật là hổ thẹn với những người lãnh đạo”. “Chúng ta đã nhảy bổ lên đầu nhau và đang nuốt chửng lấy nhau”. Cũng thế, Chrysostomos cũng lên tiếng với những lời tương tự, và với ngài thì thật là xấu hổ thay cách hành xử thiếu bác ái giữa những người Ki-tô hữu với nhau.[9]

Trong tông sắc năm Thánh lòng thương xót của Thiên Chúa, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đề cập đến tinh thần sống đạo quảng đại không xét đoán của Ki-tô hữu: “Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta thấy các bước của cuộc hành hương để đạt được mục tiêu của chúng ta: ‘Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người ta sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy’ (Lc 6,37-38). Chúa đòi hỏi chúng ta trên tất cả đừng phán xét để khỏi bị lên án. Những ai muốn tránh sự kết án của Thiên Chúa, thì đừng biến mình thành thẩm phán xét xử anh chị em mình. Con người, bất cứ khi nào họ xét đoán, nhìn không xa hơn những gì là bề mặt, trong khi Chúa Cha nhìn thấu những thẳm sâu của tâm hồn. Bao nhiêu tai hại do lời nói gây ra một khi chúng được thúc đẩy bởi những cảm xúc của sự ghen tương và đố kỵ! Nói xấu người khác đặt chúng ta dưới thứ ánh sáng xấu xa, làm xói mòn uy tín của người khác và biến họ thành con mồi cho các ý tưởng ngẫu hứng của tin đồn. Theo một nghĩa tích cực, để tránh khỏi bị xét đoán và lên án có nghĩa là biết làm thế nào, để chấp nhận những điều tốt đẹp trong mỗi người và để tha cho người ấy khỏi phải chịu những đau khổ có thể gây ra bởi sự xét đoán phiến diện của chúng ta, và bởi cái giả định của chúng ta là chúng ta biết tất cả mọi thứ về người ấy. Nhưng điều này vẫn chưa đủ để bày tỏ lòng thương xót. Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải tha thứ và cho đi. Hãy trở thành khí cụ của lòng thương xót vì chính chúng ta là những người đầu tiên nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa. Hãy rộng lượng với người khác với hiểu biết rằng Thiên Chúa tuôn đổ sự tốt lành của Ngài trên chúng ta với lòng quảng đại bao la” (số 14).

Văn hoá của lòng thương xót giữa các Ki-tô hữu với nhau cần được đặc biệt biểu lộ trong Thánh Lễ, vì nơi đó chúng ta đang làm sống động lại lòng thương xót của Thiên Chúa cách cụ thể. Thư của thánh Giacobê tông đồ khuyên chúng ta rằng: “Quả vậy, giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: ‘Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này’, còn với người nghèo, anh em lại nói: ‘Đứng đó!’ hoặc: ‘Ngồi dưới bệ chân tôi đây!’, thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao? Anh em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu Đức Tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao? Thế mà anh em, anh em lại khinh dể người nghèo!” (Gc 2,2-6).

Mong sao ước mơ của Đức Cố Hồng Y Phan-xi-cô Nguyễn Văn Thuận được thực hiện, ước mơ này ngài diễn tả trong một bài suy niệm vào dịp tĩnh tâm dành cho Giáo Triều Roma năm 2000: “Tôi mơ ước một Hội Thánh là Cửa Thánh, mở rộng, bao gồm mọi người, đầy lòng từ bi và cảm thông mọi cơ cực, đau khổ của nhân loại, và tìm cách an ủi họ”.[10]

Mong sao lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông huấn Niềm vui của Tin Mừng sẽ là một gợi hứng mạnh mẽ cho Giáo Hội sống tinh thần lòng thương xót: “Thánh Tô-ma A-qui-nô đã dạy rằng ngay cả giáo huấn về luân lý của Hội Thánh cũng có một phẩm trật riêng của nó, giữa các nhân đức và giữa các hành động phát xuất từ chúng. Ở đây, điều quan trọng hơn cả là Đức Tin hoạt động qua đức ái (x.Gl 5,6). Những việc làm của đức ái hướng đến tha nhân là sự bày tỏ hoàn hảo nhất bề ngoài của ân sủng của Chúa Thánh Thần ở bên trong: Yếu tố chính của lề luật mới là ân sủng của Chúa Thánh Thần, được tự tỏ lộ trong Đức Tin hoạt động qua đức ái, về điều này ngài nói rằng, đối với hành động bên ngoài, lòng thương xót cao trọng hơn tất cả các nhân đức. Lòng thương xót tự nó lớn nhất trong các nhân đức, vì tất cả các nhân đức khác xoay quanh nó, và quan trọng hơn nữa, nó bù đắp cho sự thiếu sót của những nhân đức khác. Điều này đặc biệt cho nhân đức cao trọng, và như thế thích hợp với việc Thiên Chúa có lòng thương xót, mà qua đó sự toàn năng của Ngài được tỏ bày cách rõ ràng nhất” (số 37).

Mong sao châm ngôn “Hãy xót thương như Chúa Cha!” của Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi sẽ nở hoa kết trái nơi từng Ki-tô hữu, nơi giáo dân và nơi linh mục, nơi giám mục nơi hồng y. Thật đẹp biết bao nếu mọi người cùng Vị Cha Chung sống đúng tinh thần của chính Chúa Giê-su, Đấng luôn thể hiện lòng thương xót của Cha trên trời trong từng lời nói, từng cử chỉ và từng hành động của Ngài.

Mong sao, lời của nhà văn người Đức Heinrich Boell là một lời động viên cho mọi Ki-tô hữu ý thức thực thi nền văn hoá của lòng thương xót trong thế giới hôm nay: “Ít nhất, lòng thương xót là một điều khả thi giữa những Ki-tô hữu, và lúc này hay lúc khác lại có những Ki-tô hữu xuất hiện và làm cho thế giới này phải ngạc nhiên. 800 triệu người trên thế giới này có khả năng làm cho thế giới này phải ngạc nhiên… Chính một thế giới Ki-tô giáo xấu nhất đối với tôi lại vẫn hơn một thế giới tục hoá tốt nhất, vì trong thế giới của Ki-tô giáo luôn có không gian cho những người bất hạnh, mà họ không thể tìm được chỗ nương tựa trong lòng thế giới tục hoá: Cho những người què quặt và bệnh tật, cho những người già cả và yếu đuối…”[11] Điều mà Heinrich Boell diễn tả, là một hồi chuông nhắc nhớ mọi tín hữu cần chú ý đến sứ mạng quan trọng và nền tảng, là phải loan truyền và thực thi nền văn hoá của lòng thương xót giữa lòng xã hội ngày càng tục hoá hôm nay.

Mong sao những câu hỏi của Đức Hồng Y Martini giúp chúng ta sống lòng thương xót một cách cụ thể hơn:

– Thái độ của tôi giống như thái độ của người ta đối với tôi: dễ thương đáp trả sự dễ thương, thô lỗ cộc cằn đáp lại những lời nói cộc cằn thô lỗ, gây hấn đáp lại thái độ công kích? Hay tôi có khả năng phản ứng khác đi, thái độ tràn đầy lòng nhân hậu xót thương?

– Tôi có dễ bị tổn thương? Tôi phản ứng thế nào? Qua lời nói và đối thoại hay là sự im lặng? Thái độ nín thinh có thể làm người khác bị tổn thương rất nặng. Đó là một câu trả lời không tiếng nói nhưng lại nói rất nhiều điều. Câu trả lời này chứng tỏ rằng, chúng ta còn thiếu lòng nhân hậu xót thương.

– Tôi có cầu nguyện cho người đã làm điều dữ đối với tôi không? Lời cầu nguyện cho kẻ thù chính là một thái độ cần có của lòng nhân hậu mà Chúa Giê-su mời gọi. Có lẽ chúng ta cần phải bắt đầu cầu nguyện cho những người làm tổn thương đến chúng ta. Trong lời cầu nguyện, trái tim bị tổn thương của chúng ta sẽ được sưởi ấm, được ủi an và hiền dịu hơn. Như vậy, chúng ta tìm thấy lối vào cánh cửa lòng thương xót nhân hậu của Thiên Chúa.

– Chúng ta có thành công sống tinh thần của lòng thương xót một cách bền chí không? Nghĩa là không chỉ có nghĩa cử đồng cảm và nhân hậu xót thương trong lúc đầu thôi, mà còn trung thành tiếp tục để cho lòng nhân hậu của Chúa thấm vào cuộc đời, vào tâm hồn, và trung tín sống theo tinh thần xót thương này. Đã bao nhiêu lần chúng ta đã thất bại, lúc đầu đi bước thật lớn, nhưng sau đó thì lại dậm chân tại chỗ? Ví dụ như trong cách hành xử với người nghèo khổ, người ngoại kiều, người thấp cổ bé miệng. Bình thường lúc đầu chúng ta bị đánh động tâm hồn, tỏ ra dấu hiệu xót thương họ, và còn làm những cử chỉ biểu lộ lòng nhân hậu của chúng ta, nhưng sau đó thì đâu cũng vào đấy, và còn thê thảm hơn nữa, khi chúng ta bắt đầu chỉ trích, nói xấu, và có những phản ứng thật là tồi tệ đối với họ, đến nỗi chúng ta chẳng còn muốn để mắt đến họ nữa.

Lạy Chúa, còn thật xa để chúng con có thể sống được Mối Phúc của Chúa.

Chúng con muốn chiêm ngắm trái tim của Chúa,

chỉ có trái tim Chúa mới có thể chữa lành cho chúng con,

thoát khỏi sự cứng đầu và lạnh lùng của chúng con,

thoải khỏi tấm màn tối che phủ ánh mắt của chúng con.

Chúng con xin Chúa giúp chúng con có thể cảm nhận được lòng nhân hậu của Chúa trong chính chúng con, để chúng con có thể hiểu rõ tinh thần các Mối Phúc, và tập sống theo tinh thần này,

nhờ đó chúng con có thể làm chứng cho thế giới về tình yêu trung tín của Chúa. Amen.[12]

Thật vậy, Giáo Hội của Chúa Ki-tô phải là Giáo Hội của lòng thương xót, và cần phải là Giáo Hội của lòng thương xót nhiều hơn nữa, vì chính vị thủ lãnh đầu tiên của Giáo Hội, Thánh Phê-rô đã từng trải nghiệm lòng thương xót cách đặc biệt.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

[1] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.155.

[2] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.156.

[3] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.157.

[4] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.157-159.

[5] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.161.

[6] ĐTC Phanxicô ban hành ngày 19 tháng 2 năm 2014 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phê-rô, Phao-lô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ, nguồn: giaoly.org.

[7] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.165.

[8] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.166-167.

[9] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.168.

[10] trích bởi CANTALAMESSA R. O.F.M.CAP., Beatitudes, eight steps to happiness, t.74.

[11] Trích từ Fastenpredigt 2013 in Tettnang, trong trang http://www.kath-kirche-tettnang.de/

[12] X. MARTINI C.M., Selig seid ihr!, t.70-71.

>> Mục Lục [12]

Bài 24: Phê-rô trải nghiệm lòng thương xót

Những giọt nước mắt hổ thẹn và hối hận lăn dài trên khuôn mặt của Phê-rô, khi ông vội vã thoát khỏi sân dinh vị thượng tế, là nơi Chúa Giê-su đang bị giam giữ. Một tiếng nói bên trong nội tâm tra khảo ông: “Làm sao ông lại chối bỏ thầy Giê-su cách công khai như vậy?” Cách đây ít lâu, ông không bao giờ có thể tưởng tượng là mình có thể quay lưng với Chúa Giê-su một cách nhẫn tâm như vậy. Những lời khẳng định đầy hiên ngang mà ông vừa nói với Chúa Giê-su, nay lại quay về ám ảnh ông: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng” (Lc 22,33). Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi Chúa Giê-su tiên báo, thì đêm hôm ấy, ông đã chối Chúa đến ba lần. Phê-rô thầm nghĩ, mọi sự xảy ra quá nhanh. Trước hết, ông cẩn thận tìm mọi cách để đi theo Chúa vào trong sân. Rồi khi ông thấy mình đã bị nhận diện là môn đệ của Chúa Giê-su, ông chợt nhận ra là mình đang gặp nguy hiểm. Đó là khi người ta bắt đầu lớn tiếng cáo buộc ông: “Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông người Na-da-rét, ông Giê-su đó chứ gì?” (Mc 14,67). Ông cảm thấy hồi hộp. Người ta càng thúc ép ông trả lời cho câu hỏi đó, thì ông càng cương quyết phủ nhận. Trong chốc lát, thái độ nhún vai phủ nhận đã biến thành một lời thề công khai, khi ông bắt đầu thốt lên những lời độc địa mà quả quyết rằng: “Tôi thề là không biết người ấy” (Mt 26,74).

Ngay khi ông nhớ lại một chuỗi những sự kiện xảy ra quá nhanh, thì lòng ông quặn đau như thắt vì thất bại và ông cảm thấy hết sức chán nản. Sau này, Phê-rô nhận thức rằng khi Chúa Giê-su quay lại nhìn ông, thì chính cái nhìn ấy – một cái nhìn đầy lòng thương xót – đã lay động tâm hồn ông, để ông nhận ra điều khủng khiếp mình vừa làm, đồng thời ông cũng nhận biết là Chúa đã thông cảm và tha thứ cho ông. Khi ông nhận ra điều đó, ông đã khóc lóc thảm thiết. Sertillanges đã chia sẻ như sau: “Đức Giê-su hướng về Phê-rô, mặc dầu ông ở rất xa, nhưng vẫn cảm được cái nhìn của Thầy, cái nhìn làm tan biến sự yếu đuối của trái tim con người, thâm nhập sâu vào tình yêu của nó và ban sức mạnh cho sự yếu đuối ấy. Tảng đá đã chao đảo. Nhưng chính trên tảng đá này mà nền móng của công trình đời đời được thiết lập. Nơi đâu mà xác thịt loài người tỏ ra yếu đuối, nơi đó quyền năng của Thượng Đế được biểu lộ rõ ràng. Phê-rô vấp ngã, nhưng ông là người thứ nhất tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, rằng Ngài là Đấng Thiên Sai Thượng Đế hứa”.[1] Câu chuyện Phê-rô chối Thầy được trình thuật cả trong bốn Tin Mừng, chỉ cho thấy Giáo Hội tiên khởi đã công bố khuyết điểm của vị thủ lãnh đầu tiên của mình, chứ không che đậy. Dù vậy, họ được thêm vững mạnh, chứ không bị vấp phạm. Kinh nghiệm của thánh Phê-rô xác nhận với họ rằng, thất bại là điều có thể chấp nhận được, bởi vì Thiên Chúa luôn luôn sẵn sàng ban ơn tha thứ. Rất có thể là chính thánh Phê-rô đã phổ biến câu chuyện thất bại của mình, khi người không ngừng cố gắng khích lệ anh chị em mình phấn đấu – như Chúa Giê-su đã yêu cầu Phê-rô: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Sa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,31-32).

Như Giáo Hội tiên khởi đã xem sự sa ngã của Adam là một “tội hồng phúc”, vì nhờ đó mà xuất hiện Đấng Cứu Thế, Giáo Hội cũng xem sự trượt ngã của Phê-rô là “tội hồng phúc”, vì nhờ đó mà Giáo Hội có được một vị thủ lãnh vừa yếu đuối vừa mạnh mẽ. Phê-rô bị bó buộc phải đối diện với bóng tối của mình, và điều đó đã làm cho ông trở nên con người khiêm nhường đầy lòng thương xót.[2] Qua hình ảnh của thánh Phê-rô, Giáo Hội được mời gọi luôn là Giáo Hội của lòng thương xót, và cần phải là Giáo Hội của lòng thương xót hơn bao giờ hết, vì Giáo Hội chính là thân thể mầu nhiệm và sống động của chính Chúa Giê-su, Đấng là mục tử nhân lành, Đấng là nguồn mạch của lòng thương xót. Chính Ngài luôn yêu thương con cái của Ngài, và mời gọi tất cả những ai sống trong khổ đau và bất hạnh hãy đến với Ngài: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29). Không chỉ dừng ở nơi đó, mà trong chiều sâu của tình yêu thương, Chúa Giê-su còn trao mọi người con của Chúa cho Mẹ Maria, người Mẹ của lòng thương xót.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

[1] SERTILLANGES A.D., What Jesus saw from the cross – Từ trên thập tự, Fr. Thomas Tuý OP.  Chuyển ngữ, chương 7. Người thân yêu. Nguồn: www.nguoitinhuu.org.

[2] WIKIE AU và NORREN CANNON, Những thôi thúc trong tim, Nguyễn ngọc Kính OFM. chuyển ngữ, NXB. Phương Đông 2012, t. 246-247.

>> Mục Lục [12]

Bài 25: Mẹ Maria, người Mẹ của lòng thương xót

Nếu lật lại các trang sách Phúc Âm, thì Mẹ Maria xuất hiện trong một số khung cảnh. Tuy nhiên, có hai đoạn Thánh Kinh kể về sự hiện diện của Mẹ Maria và đóng vai trò quan trọng trong linh đạo về Mẹ Maria. Đó là việc Đức Mẹ được tổng lãnh thiên thần Gabriel truyền tin (x.Lc 1,26-38) và sự kiện Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh Giá (x.Ga 19,26tt). Hình ảnh thứ hai mà Gio-an kể nối kết với phép lạ đầu tiên của Chúa Giê-su làm ở Cana được diễn tả trong Phúc Âm của Thánh Gio-an (x.Ga 2,1-12). Như thế, có thể nói rằng, Mẹ Maria có mặt trong những biến cố quan trọng trong lịch sử của ơn cứu độ. Dù Mẹ chỉ được nhắc đến ít lần trong Phúc Âm, nhưng Mẹ vẫn có một vai trò quan trọng trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa với nhân loại chúng ta. Đi sâu hơn một chút vào bài ca Magnificat của Mẹ Maria, chúng ta thấy rằng, Mẹ đã tóm tắt lịch sử cứu độ của Thiên Chúa, và Mẹ ca ngợi lịch sử cứu độ này như là lịch sử của lòng thương xót, lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với nhân loại: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,50).

Với việc Mẹ được chọn và được gọi là Mẹ Đấng Cứu Thế, lịch sử của lòng thương xót đã tìm được ý nghĩa trọn vẹn. Giờ đây, Thiên Chúa qua lòng thương xót vô bờ, Ngài muốn cứu độ nhân loại và dân của Ngài. Mẹ Maria đã được chọn để cùng cộng tác trong công trình cứu độ này: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1,30). Điều này có nghĩa là, không phải tự mình mà Mẹ Maria được đẹp lòng Thiên Chúa, mà tất cả đều do ân sủng của Thiên Chúa, và vì thế mọi lời ca tụng đều hướng về Thiên Chúa. Chính Mẹ cũng đã thốt lên rằng:

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,46-50).

Mẹ Maria sống trong ân sủng của Chúa, và với sự khiêm nhường của Mẹ và qua lời xin vâng của Mẹ, Mẹ đã trở nên công cụ lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Lời xin vâng của Mẹ đã đưa Mẹ vào vị trí của một nữ tỳ phục vụ Thiên Chúa, phục vụ lịch sử cứu độ của Thiên Chúa, phục vụ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với nhân loại. Thật vậy, Mẹ đã dành cho Thiên Chúa một không gian trong con người Mẹ, để Thiên Chúa có thể làm những phép lạ cứu chữa nhân loại. Nhưng lời xin vâng của Mẹ cũng vượt trên khả năng của con người, vì thế với lời xin vâng của Mẹ, Mẹ được coi là người có phúc. Qua lời xin vâng của Mẹ, Thiên Chúa đã đi vào thế giới này. Qua lời xin vâng, Mẹ Maria đã trở nên một Evà mới. Trong khi Evà đầu tiên vì sự bất tuân đã đưa lại cho thế giới này biết bao khổ đau, thì qua lời xin vâng của mình Evà mới là đại diện của nhân loại đã tháo cởi được nút rối mà Evà cũ đã gây ra. Vì thế, mà Mẹ Maria – Evà mới đã trở nên người Mẹ của kẻ sống. Qua lời xin vâng của mình, trinh nữ Maria đã trở nên một nữ tỳ lòng thương xót của Thiên Chúa, một trinh nữ đã cưu mang Đấng Cứu Thế, Đấng là nguồn của lòng thương xót.[1] Và Mẹ đã sinh ra, nuôi nấng chăm nom Đấng Cứu Thế, vị Mục Tử nhân hậu.

Là Mẹ Đấng Cứu Thế, là nữ tỳ của lòng thương xót của Thiên Chúa, Mẹ cũng đi con đường Đức Tin như mọi tín hữu. Mẹ đã phải đối diện với biết bao thử thách và đón nhận biết bao nhiêu khó khăn: Ngay từ khi Mẹ mang thai hài nhi Giê-su, cùng với thánh Giuse, Mẹ đã phải đi tìm một nơi trú ngụ và đã bị từ chối, để rồi cuối cùng Mẹ đã phải sinh con trong một nơi dành cho chiên bò. Khi sinh con xong, tưởng rằng cuộc đời Mẹ sẽ an bình. Với con thơ và với Thánh Cả Giuse, Mẹ đã phải đưa con trốn chạy trước sự lùng sục độc ác của vua Hêrôđê. Một cuộc trốn chạy đầy chông gai và thử thách qua đất nước láng giềng. Khi đưa con trẻ Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để dự lễ hội, Mẹ đã bị lạc con và đã phải rong ruổi tìm con với biết bao nỗi âu lo. Và cuối cùng Mẹ đã đau đớn đứng dưới chân Thánh Giá của con Mẹ – Chúa Giê-su, (x.Ga 19,25). Khi chúng ta chiêm ngắm Mẹ Maria đứng dưới chân Thánh Giá, chiêm ngắm người phụ nữ đang nhìn người Con duy nhất bị những người ác nhân kết án tử và đóng đinh trên Thánh Giá, chúng ta sẽ cảm nhận được tâm trạng của Mẹ: run rẩy, đau xót về những gì Mẹ đã chứng kiến trên con đường khổ nạn của con. Truyền thống Ki-tô giáo, qua việc chiêm ngắm Mẹ trong khung cảnh đó, đã nhận thấy kinh nghiệm đau khổ tột cùng của Mẹ, như một vài vần thơ khuyết danh bằng tiếng La-tinh Stabat Mater, được viết trong thời Trung Cổ: “Stabat Mater dolorosa, iuxta crucem lacrimosa, dum pendebat filius – Mẹ đau thương, đứng kề bên con của Mẹ, treo trên Thập Giá ”. Những vần thơ này đã trở thành bản đại hợp xướng của nhà soạn nhạc người Séc Antonín Dovorak Stabat mater, op. 58. Tác phẩm này được ông sáng tác trong hai năm 1876 và 1877.  Linh mục nhạc sĩ Kim Long cũng đã sáng tác bài Mẹ đứng đó, để diễn tả hành trình Đức Tin của Mẹ dưới chân cây Thánh Giá đau khổ biết chừng nào: Mẹ đứng đó khi hoàng hôn tím màu, nhạc thương trầm buồn hắt hiu, đồi cao u hoài loang máu đào, con Chúa đau thương treo trên thập giá, hiến thân vì nhân loại tội tình. Mẹ đứng đó, tâm hồn tê tái sầu, hiệp thông cùng con dấu yêu, vì thương nhân loại bao khốn cùng, xin dẫn đưa bao tâm hồn lạc hướng về bên Mẹ, Mẹ ơi.

Bản gốc La-tinh (Stabat Mater Dolorosa) được phỏng dịch qua tiếng Việt thì như sau:

“Mẹ đứng dưới chân thánh giá con yêu,
Tâm can nát tan Mẹ chết trăm chiều,
Gần bên Chúa trong giờ tử nạn.
Mẹ diễm phúc của Con một Cha,
Đấng tạo dựng đất trời,
Buồn thương và thảm thiết biết bao!
Đức Kitô chịu hành hạ trên cao,
Bên dưới Mẹ đứng nhìn xót xa,
Thấy Con chết anh hùng, tử đạo.
Hỡi những kẻ đi đường lơ đễnh,
Hãy trông xem Hiền Mẫu chúng ta
Đau xót nào sánh bằng của Mẹ?
Trái tim ai chịu nổi được không?

Chỉ một mình phụng vụ thánh đủ khả năng khai thác tốt đề tài này và có thẩm quyền phổ biến cho mọi thời đại suy ngẫm vì lợi ích các linh hồn thánh thiện. Giáo Hội yêu mến hình ảnh Mẹ Sầu Bi. Người ta có thể giải thích bài ca Stabat Mater (Mẹ đứng kề thánh giá) là phản ánh chính Giáo Hội. Nó là bài ca về lòng mẹ hiền tan nát và khổ đau vinh quang. Giáo Hội lục lọi các lời tiên tri và hô lớn với ngôn sứ Giê-rê-mia lên tổ phụ mình rằng: ‘Tai họa ngươi mắc phải lớn quá rồi, lớn tựa trùng dương ai chứa nổi?’ (Ac 2,13). Hội Thánh áp dụng lời này cho Mẹ Sầu Bi, như khi nói về Đức Giêsu, Hội Thánh áp dụng thân phận cô gái héo hắt Sion: ‘Này tất cả những ai qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem, có nỗi khổ nào so sánh được với nỗi khổ Đức Chúa giáng trên tôi?’ (Ac 1,12).

Quả thực Đức Maria là duy nhất trong mọi sự…Đức Mẹ vượt xa trên các thụ tạo khác trong liên hệ với định mệnh con người cả về công nghiệp, thống khổ và vinh quang tương lai. Đức Maria vừa là người Nữ đồng trinh, vừa là Mẹ và là Đấng Đồng công. Ngài là bông hoa chỉ mở cánh ra vì Thiên Đàng mà thôi, Ngài là mặt trăng chiếu sáng trần gian, là mạch suối tuôn trào đức trong sạch, là luống cầy ban tặng bánh hằng sống cho nhân loại lớn lên. Lạy Mẹ, chính từ lòng Mẹ mà sự sống đời đời đã đến với thế giới. Bởi vì Đấng sinh ra cho chúng con đã chọn Mẹ làm hiền mẫu (Kinh Ave Maris Stella – Kính chào Ngôi Sao Biển)”.[2]

Sự hiện diện và đau khổ tột cùng của Mẹ, một đàng diễn tả tình Mẹ dành cho Chúa Giê-su đang bị những người ác nhân kết liễu cách hãi hùng, đàng khác diễn tả sự quyết tâm sống lời xin vâng của Mẹ. Khi Mẹ nói lời xin vâng với Thiên Chúa qua sứ thần Gabriel, Mẹ đã sẵn sàng đi vào con đường mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho Mẹ. Ngoài ra, ở tại cây Thánh Giá, nơi con Mẹ đang bị treo đau đớn, lời xin vâng của Mẹ mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Sự hiện diện của Mẹ bên Thánh Giá cho thấy, Mẹ quyết tâm chia sẻ trọn vẹn sứ mạng và hy lễ cứu độ của Con Mẹ là Chúa Giê-su. Mẹ muốn tham dự vào tận đáy sâu thẳm những thống khổ mà Chúa Giê-su chịu. Mẹ không khước từ lưỡi gươm cụ già Si-mê-on ngày xưa tiên báo cho Mẹ: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,35b). Mẹ luôn nói lời xin vâng với Thiên Chúa, cụ thể trong chương trình huyền nhiệm của Chúa Cha dành cho Chúa Ki-tô.

Phần cuối cùng của Phúc Âm thứ tư, thánh sử Gio-an còn diễn tả một hình ảnh thật xúc động: Từ trên Thánh Giá, Chúa Giê-su đã trăn trối Mẹ mình cho Gio-an, người môn đệ mà Chúa thương yêu, và trăn trối Gio-an như là đại diện cho Mẹ mình, người nữ tỳ của lòng thương xót (x.Ga 19,26tt). Dưới chân Thánh giá, Mẹ đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn Mẹ qua lời trao gởi của Chúa Giê-su: Thưa Bà, đó là con bà. Chúa Giê-su muốn Mẹ đón nhận Thánh Gio-an là người môn đệ Chúa yêu thương, trở thành đứa con của Mẹ. Chúa muốn đem lại cho Gio-an một mái ấm mới, một quê hương mới với người Mẹ luôn yêu thương chăm sóc con mình.[3] Nói cách khác, vào lúc đầu tiên của biến cố nhập thể, thiếu nữ thành Na-da-rét đã trở thành Mẹ Thiên Chúa, thì trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giê-su – Con Mẹ, Mẹ trở thành Mẹ của những người tin, Mẹ Giáo Hội, Mẹ của nhân loại, người Mẹ luôn thương xót con cái của mình. Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) nói rằng: “Ðức Trinh Nữ tiến bước trong cuộc lữ hành Đức Tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên Thánh Giá, là nơi theo ý Thiên Chúa, Mẹ đã đứng ở đó (x.Ga 19,25). Ðức Maria chịu đau khổ kinh khủng với người Con duy nhất của mình, dự phần vào hy lễ của Con, với tâm tình của người mẹ ưng thuận hiến dâng lễ vật do lòng mình sinh ra, để cuối cùng khi hấp hối trên Thánh Giá, Chúa Giê-su Ki-tô đã trối Mẹ làm Mẹ của môn đệ: Thưa Bà, này là con Bà (Ga 19,26-27)” (số 58).[4]

Ở gốc cây biết lành biết dữ, Evà đã mất chức làm mẹ loài người.

Ở dưới chân Thánh giá, Đức Mẹ đón nhận chức vị làm Mẹ loài người.

Là Mẹ loài người và là Mẹ Chúa Giê-su, đó là nét đẹp tuyệt vời nơi Mẹ. Chúa Giê-su đã vẽ lên một tuyệt phẩm về chính người Mẹ của mình, và Ngài cũng trao gởi tuyệt phẩm này cho chính môn đệ yêu dấu của Ngài, và cũng trao gởi cho mỗi người chúng ta. Như thế, qua hành động của Chúa Giê-su, Giáo Hội đã khám phá đôi chút về mầu nhiệm đời sống Ki-tô hữu. Tín hữu là thành viên của một gia đình thiêng liêng. Cũng như một đứa trẻ cần có cha có mẹ để phát triển bình thường, thì tín hữu cũng cần có Đức Maria và Cha trên trời.[5]

Đó là Mẹ của con. Khi đọc lời trên của Chúa Giê-su, chúng ta thấy rằng, trong cái nhìn đầu tiên mang tính con người, Chúa Giê-su đã diễn tả tình yêu của mình dành cho Mẹ Maria. Chúa là Người Con duy nhất của Mẹ, và sau khi Chúa chết, Mẹ sẽ sống lẻ loi một mình trên thế giới này. Có lẽ vì lo cho người Mẹ đang chịu nhiều đau khổ và mất mát, Chúa đã trao gởi Mẹ cho người môn đệ mà Chúa tin tưởng và thương yêu. Gio-an, tên người môn đệ đó, giờ đây trở nên người con trai của Mẹ, và Gio-an cần phải có trách nhiệm với Mẹ Maria.[6] Điều Chúa Giê-su làm thật là một cử chỉ cao quý. Có lẽ thánh Giuse đã qua đời trước đó, nên Chúa không muốn Mẹ mình phải sống trong cảnh goá phụ bị lệ thuộc và cô đơn, cũng như bị người đời nguyền rủa, bởi vì trong xã hội Do Thái thời đó người phụ nữ đơn chiếc là coi như người bị nguyền rủa.

Chúa không muốn người phụ nữ quá đau đớn vì mất con, và đã phải trải qua biết bao thống khổ khi đồng hành với con trên đường Thánh Giá, lại phải một mình chìm trong nỗi đau khổ tột cùng, trong những tháng ngày còn lại của bà. Cũng thật cao quý biết bao, khi Chúa Giê-su trong hoàn cảnh đau khổ của mình trên Thánh Giá, Ngài đã không nghĩ làm sao để Ngài có thể đỡ đau đớn, mà Ngài lại quên mình đi, và nghĩ tới Mẹ mình, nghĩ tới người khác đang đứng kia với một tâm hồn sầu não thảm thê. Đó là tình yêu của Chúa dành cho Mẹ. Một tình yêu không chỉ mang sắc thái của cảm tính, mà còn mang tinh thần quên mình đi, và luôn chú ý và chăm sóc người khác, người gần nhất cũng như người xa nhất.

Trong chính bầu khí của khổ đau, không cần nhiều lời, chỉ một vài lời ngắn ngủi, Chúa đã đưa lại biết bao ủi an cho Mẹ mình, đã tháo cởi chiếc dây trói buộc khổ đau vào cuộc đời của Mẹ: Đó là Mẹ của con. Ngay trong bầu khí khổ đau này, Chúa đã tạo nên một tương quan mới cho Mẹ mình. Trong chính bầu khí của khổ đau, một bầu khí của tình yêu đã được khơi mào, dù rất nhỏ nhưng thật quý giá. Và với thời gian, bầu khí của tình yêu này đã lớn dần và mạnh mẽ, lan toả đến khắp mọi nơi. Bầu khí tình yêu của Mẹ dành cho nhân loại, giờ đây không bao giờ đóng cửa với bất cứ ai. Tình Mẫu Tử này thật cao quý, vì thế tình của mỗi người con dành cho Mẹ cũng cần phải cao quý như vậy.

Khi Chúa Giê-su trao phó cho Gio-an Mẹ của Người, Gio-an đã phản ứng như thế nào? Đọc phần kế tiếp, ngay sau lời Chúa nói với Gio-an, chúng ta thấy rằng: “Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,27b). Trong bản văn của tiếng Hy-lạp là eis ta idia. Theo Cha Anselm Gruen, thì có nghĩa là vào trong nội tâm của anh, vào trong trái tim của anh.[7] Còn theo Đức Benedicto XVI, thì có nghĩa theo mạch chữ là anh ta đón nhận Mẹ vào trong nơi sâu kín của anh, vào cuộc sống nội tâm của anh.[8] Và theo nhà Thánh Kinh học Schnackenburg cũng vậy. Từ ngữ eis ta idia diễn tả không gian của tâm hồn.[9] Gio-an đã mở rộng cánh cửa đón mời Mẹ Maria vào. Cánh cửa đó không chỉ là cánh cửa nhà của ông, mà là cánh cửa tâm hồn sâu kín của ông. Như thế, Gio-an đã sống đúng điều mà Chúa Giê-su nhắn nhủ ông. Có thể nói rằng, khi Chúa nói “đây là Mẹ của con”, Ngài cũng muốn Gio-an hãy yêu thương Mẹ như Chúa đã yêu thương Mẹ.

Hơn nữa, qua lời trăn chối này Chúa Giê-su cũng đã đặt nền tảng cho việc yêu mến Mẹ Maria trong lòng Giáo Hội, trong lòng mỗi tín hữu. Thật vậy, tín hữu nào đón nhận Mẹ Maria vào nhà mình, vào tâm hồn sâu kín như Gio-an, sẽ không trở thành kẻ cuồng tín hay khờ khạo, nhưng họ trở là những tín hữu với tâm hồn khiêm tốn, đơn sơ, tràn đầy hân hoan và niềm vui tôn kính và yêu thương Mẹ Maria như hiền mẫu của mình. Công Đồng đã dạy rằng: “Phần các tín hữu hãy nhớ rằng, lòng tôn sùng chân chính không hệ tại ở tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một Đức Tin chân thật. Đức Tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).[10]

Một trong những nhân đức cao quý của Mẹ là luôn thờ lạy Thiên Chúa và luôn xin vâng theo thánh ý của Ngài. Vì thế, đi đôi với sự tôn sùng Mẹ Maria, tín hữu luôn ý thức thờ lạy Thiên Chúa trên hết mọi sự, và thờ lạy Ngài là Thiên Chúa Duy Nhất. Đó chính là nét đặc trưng của người Công Giáo: biết đón nhận Mẹ Maria, nhưng không vì thế mà lãng quên Thiên Chúa. Khi đón nhận Mẹ Maria, tín hữu ý thức đó là món quà vô giá mà chính Chúa Giê-su ban tặng. Thật tuyệt vời, khi tín hữu nhận ra rằng: Vì yêu thương nhân loại quá đỗi, nên Cha trên trời đã tặng ban Người Con Duy Nhất của Ngài cho nhân loại. Giờ đây, Người Con Duy Nhất yêu thương nhân loại đến nỗi hy sinh chính bản thân mình cho nhân loại, và ban tặng thêm một món quà cao quý là chính Mẹ của Ngài.

Vì thế, chúng ta xin Chúa cho chúng ta biết luôn mở rộng cánh cửa nhà mình, cánh cửa tâm hồn mình, để như Gio-an đón Mẹ Maria vào, dọn cho Mẹ một chỗ xứng hợp. Có Chúa có Mẹ, thì đời sống tín hữu sẽ không bao giờ lẻ loi. Có Chúa có Mẹ, tín hữu sẽ tìm thấy được an bình và hạnh phúc đích thật. Có Chúa có Mẹ ở bên, tất cả mọi khổ đau của cuộc đời này sẽ không thể làm cho tín hữu đánh mất chính bản thân và cuộc sống của mình. Chữ cuối cùng của cuộc sống này sẽ không phải do thần chết viết lên, mà do chính Chúa và Mẹ viết lên. Chữ đó là chữ thương xót trao ban sức sống và đem lại sự sống vĩnh cửu.

Cuối cùng, hình ảnh của Mẹ ôm xác Chúa Giê-su vào lòng đã trở thành một bức tranh tràn đầy tình yêu thương, lòng thương xót của Mẹ. Ai bước vào đền thờ Thánh Phê-rô ở Rôma đều phải dừng bước trước bức tượng Pieta nổi tiếng của Michelangelo, để chiêm ngắm không chỉ những đường nét nghệ thuật tuyệt vời, mà còn khám phá được chiều sâu của lòng thương xót được tích tụ nơi người Mẹ cao quý. Với Kasper, việc Mẹ Maria ôm con đã chết vào lòng mình diễn tả trải nghiệm lớn nhất nhất về sự đau đớn mà Mẹ phải chịu. Nơi đây, Mẹ không chỉ đón nhận sứ điệp của các Mối Phúc, mà Mẹ – nữ tỳ của lòng thương xót, còn sống động các Mối Phúc đó. Mối Phúc của nghèo khó, Mối Phúc của đau buồn, Mối Phúc của bách hại, Mối Phúc của lòng thương xót (x.Mt 5,1-12).[11]

Một số đoạn Tin Mừng nhắc đến Mẹ Maria, từ nhiều thế kỷ, đã tìm thấy được một chỗ đặc biệt trong lòng của các tín hữu. Tinh thần đạo đức kính mến Mẹ Maria của các tín hữu là câu trả lời sống động cho vai trò của Mẹ, nữ tỳ lòng thương xót của Thiên Chúa, và cũng là tiếng vang lan toả khắp mọi nơi. Tinh thần kính mến Mẹ Maria và tiếng vang này tương hợp với chính lời của Mẹ đã thốt lên: “Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1,48b).

Một trong những điều quan trọng trong tín lý liên quan đến Đức Mẹ mà Công Đồng Ê-phê-sô (431) nhắc tới, là việc Mẹ Maria được diễn tả là “Người Mẹ sinh ra Thiên Chúa”. Ở đây, điều quan trọng là tính cách Ki-tô học được nêu bật, nghĩa là đụng tới câu hỏi mà thời đó đã tranh cãi, là Chúa Giê-su có phải là con Thiên Chúa hay không. Như thế, vai trò của Mẹ Maria đã luôn được nhắc tới trong sự liên hệ với với Chúa Ki-tô. Theo tinh thần nền tảng này, thì việc tôn kính Mẹ Maria tìm được cách thức đúng đắn nhất và hữu ích nhất.

Dựa trên tinh thần nền tảng này, mà nhiều lời cầu nguyện, các thánh thi và các bài thánh ca đã được các nhà đạo đức và thiêng liêng học viết ra để ca tụng tôn vinh Đức Mẹ. Các nghi thức Phụng Vụ là một chứng minh cụ thể. Vào năm 300, đã có một lời cầu nguyện tôn vinh Mẹ Maria, người Mẹ giàu lòng thương xót: “Lạy Mẹ rất thánh sinh ra Thiên Chúa, dưới bóng cánh và dưới sự chở che của Mẹ, chúng con xin chạy đến để ẩn náu”, và trong ý nghĩa nguyên thủy là: “Lạy Mẹ rất thánh sinh ra Thiên Chúa, chúng con xin ẩn náu dưới lòng thương xót của Mẹ”.[12]

Ngoài ra, một rong những lời cầu nguyện nổi bật nhất diễn tả lời kêu cầu xin lòng thương xót của Mẹ là bài hát Salve Regina – Kính chào Ðức Nữ Vương mà Giáo Hội đã đưa vào giờ kinh tối trong Kinh Phụng Vụ: Kính chào Ðức Nữ Vương, Bà là Mẹ xót thương, ngọt ngào cho cuộc sống. Kính chào Lẽ Cậy Trông! Này con cháu E-và, thân phận người lưu lạc, chúng con ngửa trông Bà, kêu Bà mà khóc lóc, than thở với rên la, trong lũng đầy nước mắt. Bà là Nữ Trạng Sư, nguyện đưa mắt nhân từ, phía đoàn con đoái lại; và sau đời khổ ải, xin Bà khứng tỏ ra, cho đoàn con được thấy, quả phúc bởi lòng Bà: Ðức Giê-su khả ái. Ôi lượng cả khoan hồng, ôi tấm lòng xót thương, ôi dịu hiền nhân hậu, Trinh Nữ Maria.

Lời cầu nguyện này tính tới hôm nay đã 900 tuổi. Người thốt lên lời cầu nguyện này, có lẽ đã trải qua những kinh nghiệm thật khổ đau. Trong hoàn cảnh đau khổ đó, tín hữu này đã chạy đến với Mẹ Maria và kêu cầu cùng Mẹ giàu lòng thương xót. Tín hữu này là chân phước Hermann sống trong thế kỷ thứ 11. Từ khi 07 tuổi, Hermann đã sống trong tu viện trên đảo Reichenau, Bodensee, Đức Quốc. Đọc lịch sử về chân phước Hermann, chúng ta thấy rằng, ngay từ nhỏ, Hermann đã bị tàn tật, và nếu không có sự giúp đỡ của người khác thì không thể bước đi được. Các bạn đã gọi Hermann là thằng gù, bởi Hermann không thể đứng thẳng lên được. Trong hoàn cảnh bất hạnh này, Hermann đã đi tìm sự ủi an và sức mạnh trong cầu nguyện, và Thiên Chúa nhân hậu đã ban cho Hermann nhiều ơn lành. Trong những tài liệu về đời sống thiêng liêng mà Hermann để lại, có thể tìm thấy những lời cầu nguyện với Mẹ Maria của Hermann. Một trong những lời cầu nguyện đó là lời kinh Salve Regina.

Với lời kinh Salve Regina chúng ta cảm nhận rằng, như ngày xưa sứ thần Gabriel chào Đức Mẹ trong biến cố truyền tin thế nào, chúng ta cũng kính chào Mẹ Maria như vậy: Kính chào Ðức Nữ Vương, Bà là Mẹ xót thương, ngọt ngào cho cuộc sống. Kính chào Lẽ Cậy Trông! Lời chào này diễn tả khuôn mặt thật đẹp của Mẹ Maria. Mẹ vừa là Nữ Vương của chúng ta, vừa là người Mẹ giàu lòng thương xót, và chúng ta được phép cậy trông vào Mẹ, vì Mẹ luôn cầu bầu cho chúng ta, và với tấm lòng thương xót bao la, Mẹ luôn đưa lại cho cuộc sống chúng ta sự an ủi ngọt ngào, đặc biệt trong những khi chúng ta rơi vào trong thử thách, trong khổ đau và bất hạnh. Vì thế, trong hành trình lưu lạc trên dương thế này, chúng ta những người con của Evà cũ, được phép hướng nhìn và kêu cầu cùng Evà mới bất cứ lúc nào và như thế nào. Lời kêu cầu đó có là rên la, với nước mắt, thì Mẹ Maria đều lắng nghe và đoái nhìn tới. Thật vậy, đôi tai của Mẹ Maria luôn lắng nghe những lời kêu than của con cái khổ đau. Đôi mắt của Mẹ không bị mù tối trước những phận người bất hạnh đang lê bước và lưu lạc trên dương thế này. Mẹ Maria giàu lòng thương xót luôn hiện diện và bầu chữa cho chúng ta. Không chỉ dừng ở sự an ủi đó, Mẹ còn đưa chúng ta đến gặp Chúa Giê-su, quả phúc bởi lòng Mẹ, Đấng là nguồn mạch của lòng thương xót. Vì thế, cùng với chân phước Hermann, chúng ta được phép cao rao lời tung hô Mẹ: Ôi lượng cả khoan hồng, ôi tấm lòng xót thương, ôi dịu hiền nhân hậu. Trinh Nữ Maria.

Ngoài ra, trong thế kỷ thứ 12, Mẹ Maria còn được mọi người kêu cầu đến như là người Mẹ của lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng chữa lành các người bệnh hoạn, nơi trú ẩn cho kẻ tội lỗi, niềm an ủi cho những người bất hạnh, và Đấng hằng Cứu Giúp các tín hữu. Thánh Irene thành Lyon trong thế kỷ thứ 2 đã gọi Mẹ Maria là Đấng tháo nút rối mà Evà cũ đã làm cho bị rối qua sự bất tuân Thiên Chúa. Vì thế, Mẹ Maria đã trở thành chuyên gia tháo cởi những nút rối bời trong cuộc sống của các tín hữu, nút rối trong cuộc sống cá nhân, nút rối trong tương quan với người khác, và cả nút rối bởi tội lỗi và lầm lỡ đã gây ra. Có một hình ảnh khác gắn liền Mẹ Maria với tinh thần của lòng thương xót: Mẹ Maria với chiếc áo choàng của lòng thương xót. Nếu đi đến nước Đức và nước Áo, đặc biệt phía Nam nước Đức, chúng ta có thể tìm thấy trong một số nhà thờ Công Giáo cổ những tấm hình hay những bước tượng chạm trổ hoạc điêu khắc hình ảnh của Mẹ Maria với chiếc áo choàng thật lớn. Mẹ giang rộng áo choàng nhân ái để cho biết bao người tìm đến và trú ẩn. Trong tập sách Gotteslob – Ca ngợi Thiên Chúa, được sử dụng cho việc hát cộng đồng trong Thánh Lễ, trong tất cả các nhà thờ của Giáo Hội Công Giáo ở Đức, có một bài hát diễn tả hình ảnh này. Bài hát này xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1640, ở Innsbruck, Áo Quốc, do một tác giả vô danh. Sau đó, bài hát này đã được các tín hữu ưa chuộng và lan rộng khắp nơi trong vùng nước Đức và Áo. Theo Kasper, bài hát này đã được các tín hữu hát lên thật sốt sắng trong chiến tranh thế giới thứ Hai ở Đức và Áo.[13]Một vài câu trong bài hát diễn tả sống động hình ảnh của Mẹ Maria với chiếc áo choàng của lòng thương xót:

Lạy Mẹ Maria, xin hãy giang rộng áo choàng, xin hãy là khiên che và thuẫn đỡ chúng con. Xin cho chúng con được trú ẩn an toàn dưới áo Mẹ, cho đến khi mọi gió bão qua đi. Lạy Đấng Bảo Trợ và tốt lành, xin chở che chúng con mãi mãi.

Ôi lạy Mẹ của lòng thương xót, xin hãy giang rộng áo choàng, trong mọi lúc và trước mọi hiểm nguy, xin gìn giữ chúng con trú ẩn dưới áo Mẹ. Lạy Đấng Bảo Trợ và tốt lành, xin chở che chúng con mãi mãi.[14]

Ngoài ra, hình ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp rất quen thuộc với tín hữu Công Giáo Việt Nam, cũng là một đặc trưng diễn tả lòng thương xót của Mẹ Maria. Vẫn nhớ thời ấu thơ, mẹ tôi luôn cầu nguyện với Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp cho gia đình và cho mỗi đứa con được bình an và được lớn lên trong sự chở che giúp đỡ của Mẹ Maria, Đấng hằng cứu giúp. Không ít người Công Giáo Việt Nam, khi gặp hiểm nguy, hay khi rơi vào trong những hoàn cảnh bất hạnh, đều ôm ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp vào lòng, và cầu xin Mẹ thương xót chở che, nâng đỡ, để vượt qua đại dương của cuộc đời với biết bao sóng to gió bão đang đe doạ mỗi ngày. Khi còn thanh niên, cùng với các bạn chúng tôi đi giúp một giáo điểm truyền giáo ở quê hương. Xung quanh ngôi thánh đường nhỏ bé thời đó là biết bao anh chị em lương giáo khác. Kế bên thánh đường là một cái ao nhỏ. Trước đây, vị linh mục đầu tiên đặt chân đến mảnh đất này đã tìm thấy tấm hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp được khắc bằng đá ở dưới một cái ao, và đã bị vỡ ra thành một số mảnh. Với tất cả lòng tôn kính Mẹ Maria, cha đã cùng anh chị em gắn lại tấm hình Đức Mẹ, và mọi tín hữu trong vùng đó tin rằng, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đã và đang tiếp tục chở che mọi người trong giáo điểm, và bây giờ đã trở thành một giáo xứ.

Một mẫu hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nổi tiếng dịu dàng bế Chúa Giê-su hài đồng trên tay là mẫu hình thuộc trường phái nghệ thuật Đông Phương – Ikone. Mẫu hình nổi tiếng này thường được gọi là Wladimirskaja, được vẽ vào thế kỷ thứ 12, tại Konstantinopel. Hiện nay, tấm hình gốc Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – Wladimirskaja được giữ trong viện bảo tàng nghệ thuật Tretjakow – Mạc tư Khoa. Cũng có nhiều bức hình hoạ theo kiểu mẫu này đã được các nghệ nhân vẽ trong thời gian sau này ở nhiều nơi khác nhau.[15]

Tất cả những bài thánh ca, những lời cầu nguyện và các tác phẩm nghệ thuật diễn tả Mẹ Maria với lòng thương xót vô bờ, đã làm rung động biết bao nhiêu tâm hồn. Thánh tiến sĩ Ambrosius cũng đã nêu bật hình ảnh của Mẹ Maria là nguyên mẫu – nguyên bản (Typos) của Giáo Hội. Công Đồng Vaticanô II cũng đã nhắc đến điều này. Là người đầu tiên được cứu rỗi, Mẹ Maria thật là nguyên mẫu. Nghĩa là Mẹ là nguyên mẫu của mọi người được Thiên Chúa cứu rỗi. Là Mẹ của Đấng Cứu Thế, thì Mẹ cũng là Mẹ của tất cả mọi người được cứu rỗi.[16] Công Đồng Vaticanô II diễn tả như sau: “Với tình từ mẫu, Ngài chăm sóc những anh em của Con Ngài đang lữ hành trên dương thế và đang gặp bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời” (Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội, s.62). Không chỉ dừng ở đó, Giáo Hội còn đi thêm một bước, khi xác tín rằng: “Vì thế, trong Giáo Hội, Ðức Nữ Trinh được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng Trung Gian” (Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội, s.62).

Trong niềm tin tưởng và với lòng tôn kính Mẹ Maria, người Nữ Tỳ lòng thương xót của Thiên Chúa, người Mẹ luôn hằng cứu giúp con cái của mình, các tín hữu luôn cầu xin với Mẹ Maria: “Xin cầu cho chúng con là kẻ có tội, bây giờ và trong giờ lâm tử”. Cũng xin Mẹ cho mỗi tín hữu luôn biết hướng nhìn lên Mẹ, nguyên mẫu của lòng thương xót, để cùng với Mẹ thực thi nền văn hoá của lòng thương xót trong đời sống thường ngày, ngay trong xã hội tục hoá này. Qua đó, vinh quang của Thiên Chúa và thánh ý của Ngài được thể hiện rõ rệt hơn nữa trên dương thế, thánh ý của vị Mục Tử đầy lòng thương xót luôn đi tìm ơn cứu rỗi cho đàn chiên của mình.

Mối Phúc về lòng thương xót là Mối Phúc nền tảng và quan trọng, vì Mối Phúc này đưa chúng ta về lại với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót. Ngài đã thương xót nhân loại chúng ta, đến nỗi đã ban Chúa Giê-su, người con duy nhất của Ngài cho chúng ta. Chính Chúa Giê-su đã thực thi lòng thương xót của Thiên Chúa một cách sống động không chỉ trong lời giảng mà trong cả hành động của Ngài. Hành động của lòng thương xót đạt được cao điểm ở tại cây Thánh Giá. Chúa Giê-su cũng mời gọi mọi tín hữu, những người con tin tưởng vào Ngài ý thức sống tinh thần xót thương như Ngài đã sống. Ngài đã ban cho các tín hữu người Mẹ yêu dấu của Ngài, Mẹ Maria, Nữ Tỳ lòng thương xót của Thiên Chúa, để các tín hữu có thể chạy đến với Mẹ, và Mẹ sẽ dẫn họ đến với con của Mẹ là Chúa Giê-su. Ngoài ra, lòng thương xót mà Chúa Giê-su mời gọi các tín hữu sống không chỉ mang chiều kích cá nhân, mà còn mang chiều kích tập thể. Nghĩa là Giáo Hội của Chúa, là thân thể mầu nhiệm của Đức Ki-tô cũng cần trở nên Giáo Hội của lòng thương xót. Có như thế, thì muôn muôn người trên thế giới này sẽ tìm thấy được ơn cứu rỗi, khi gặp được và chạm được chính Đấng là nguồn của lòng thương xót. Để tiếp tục phần suy niệm các Mối Phúc, xin được chuyển tiếp qua Mối Phúc kế tiếp về sự trong sạch của tâm hồn. Những tâm hồn biết thương xót luôn là những tâm hồn trong trắng tuân theo thánh ý của Thiên Chúa.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

[1] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.203-205.

[2] SERTILLANGES A.D., What Jesus saw from the cross – Từ trên thập tự, Fr. Thomas Tuý OP.  Chuyển ngữ, chương 7. Người thân yêu.

[3] RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, t.244.

[4] Thánh Công Đồng chung Va-ti-ca-nô II, Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, Đà-lạt 1972, t.246.

[5] Chú thích Ga 19,25 của HURAULT B., trong Lời Chúa cho mọi người, Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước, t.1862.

[6] RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, t.244.

[7] X. GRUEN A., Sieben Schritte ins Leben, E-book, phần 3: Das dritte Wort Jesu am Kreuz – die Quelle der Liebe.

[8] X. RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, t.244.

[9] SCHNACKENBURG R., Das Johannesevangelium, III.Teil, t.325.

[10] Thánh Công Đồng chung Va-ti-ca-nô II, t.249.

[11] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.206.

[12] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.208.

[13] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.210.

[14] X. Das katholische Gesangbuch Gotteslob, Katholische Bibelanstalt, Stuttgart 1975.

unter der Nummer 595.

[15] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.209.

[16] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.210-211.

>> Mục Lục [12]

Bài 26: Chúa là Mục Tử nhân lành hay thương xót

“Misericordiae Vultus” (Dung mạo thương xót). Đó là tựa đề của tông sắc mà ĐTC. Phanxicô ban hành cho Năm Thánh đặc biệt về lòng Chúa thương xót.

Đức Thánh Cha nói rằng: lòng thương xót là “con đường liên kết Thiên Chúa với con người, vì mở rộng tâm hồn cho niềm hy vọng được yêu thương mãi mãi, mặc dù có những giới hạn do tội lỗi chúng ta”; lòng thương xót là “luật căn bản ở trong tâm hồn mỗi người”; là “xà nhà nâng đỡ cuộc sống của Giáo Hội”; “là lý tưởng sống và là tiêu chuẩn xác định xem niềm tin của chúng ta có đáng tín nhiệm hay không”.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng lòng thương xót “không phải là một dấu chỉ sự yếu nhược, nhưng đúng hơn là phẩm tính toàn năng của Thiên Chúa”. Trong Chúa Giêsu, “tất cả đều nói về lòng thương xót và không gì bị thiếu sự cảm thương”, vì “con người của Chúa Giêsu không là gì khác hơn là tình thương, một tình thương trao ban nhưng không”.

Với tâm tình của Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng ta cùng chiêm ngắm Chúa Giê-su, vị Mục Tử nhân lành hay thương xót, chúng ta chạy đến để ở lại bên Ngài, như hình ảnh của đàn chiên nhỏ bé chúng ta sống tinh thần cậy trông và tín thác vào Chúa, vào Mục Tử nhân lành, giàu lòng xót thương:

“CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi”
 (Tv 23,1-3a).

Thiên Chúa là Mục Tử nhân lành hay thương xót, Ngài chăn dắt mỗi người trong chúng ta. Bạn có tin điều đó không? Nếu bạn tin như thế và nếu bạn ý thức bước vào tương quan với Đấng là Mục Tử chăn dắt bạn, nghĩa là bước vào tâm tình cầu nguyện và sống kết hiệp mật thiết với Ngài, thì cuộc đời bạn sẽ biến đổi. Ưu tư của bạn sẽ tan biến, những mặc cảm sẽ không còn, và bình an sẽ quay về với tâm tư đầy xao xuyến của bạn. Với Chúa và ở bên Ngài – Đấng giàu lòng xót thương, bạn sẽ sống an vui ngày này qua ngày khác, giờ này sang giờ kia. Chúa đang ở đó bên cạnh bạn và bạn đang ở trong vòng tay yêu dấu của Chúa. Chúa của những cánh chim bay lượn giữa bầu trời và những đoá huệ khoe sắc ngoài đồng ruộng. [1]

Thiên Chúa là Mục Tử nhân lành hay thương xót, Ngài chăn dắt mỗi người trong chúng ta. Bạn có tin điều đó không? Bạn hãy quan sát những đàn chiên trên các sườn núi với cỏ xanh. Đàn chiên tung tăng chạy nhảy, chúng nhẩn nha gặm gỏ, chúng lững thững dưới bóng râm. Và dưới bóng râm đó chúng nằm lặng yên để nghỉ ngơi trong an bình. Không có gì là hối hả, là kích động, là âu lo. Chúng thậm chí cũng chẳng nhìn người mục tử, chúng biết anh ta vẫn ở đó, với lòng thương xót luôn hiện diện bên cạnh và chăm sóc chở che chúng. Và thế là chúng thoải mái vui hưởng đồng cỏ mơn mởn và xanh tươi. Thanh thản, chúng lại rảo bước tới dòng suối với dòng nước trong lành đang chảy róc rách. Bình lặng nhưng tràn đầy niềm vui, chúng tận hưởng những dòng nước làm mát tâm hồn. Đó là bình an. Đó là hạnh phúc. Ôi thật đúng Lời Chúa nói: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Thật vậy, hướng về Đấng là Mục Tử nhân lành hay thương xót, chúng ta nhận ra rằng, nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta – những con chiên của Chúa không thiếu gì cả. Đắm chìm trong cầu nguyện, kề bên lòng Chúa, chúng ta sẽ khám phá ra rằng: Có Chúa là có tất cả. Chúa là đủ cho tôi rồi. Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Là Mục Tử nhân lành hay thương xót, Chúa chia sẻ cuộc sống với đàn chiên, cả ban ngày cũng như lúc đêm khuya, khi buồn đau và lúc vui mừng. Nỗi lo của chiên là nỗi lo của Chúa, niềm vui của chiên là niềm vui của Ngài. Là Mục Tử nhân lành hay thương xót, Ngài chỉ mong sao cho chiên của mình được an bình. Ngài đưa đàn chiên tới đồng cỏ xanh tươi, nơi yên tĩnh và bình lặng, và Ngài để chiên được nghỉ ngơi trong an bình, trong sự an toàn với sự đồng hành và chăm lo của Ngài. “Vui tươi và hồn nhiên. Những con cừu không biết tính toán. Còn bao nhiêu thời giờ? Ngày mai sẽ đi đâu? Năm tới, lượng mưa có đủ cho thảo nguyên hay không? Những con cừu không quan tâm, bởi đã có người chăm sóc cho chúng. Chúng sống hết ngày này sang ngày khác, giờ này sang giờ kia. Đó là hạnh phúc”.[2] Đó là bình an đến từ lòng thương xót tuyệt vời của vị Mục Tử. Thật quý báu biết bao, khi đàn chiên được Mục Tử nhân lành hay thương xót chăm lo và cho hưởng những giây phút hoà bình tuyệt mỹ. 

“Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa”
 (Tv 23,4-5).

Lũng âm u mà Thánh Vịnh gia nhắc đến, cũng là thời gian đau thương của dân tộc Do Thái, bị đày ải ở Ai Cập, 40 năm ròng rã trong sa mạc, rồi thời kỳ lưu đày ở Babylon. Những đau thương đó không làm cho dân Do Thái thất vọng hoàn toàn, dù nhiều khi tiếng ai oán thét lên thảm khốc, dù không ít lần bao tâm hồn đã rơi lệ. Thiên Chúa vẫn hiện diện và chở che:“Thật vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của (các) ngươi, đã chúc phúc cho (các) ngươi trong mọi việc tay (các) ngươi làm, Người đã biết cuộc hành trình của (các) ngươi trong sa mạc mênh mông ấy; đã bốn mươi năm Đức Chúa, Thiên Chúa của (các) ngươi, ở với (các) ngươi, và (các) ngươi đã chẳng thiếu thốn điều gì” (Đệ nhị Luật 2,7).

 Thiên Chúa hay thương xót luôn ở đó và với côn trượng trên tay, Ngài bảo vệ đoàn chiên mình, che chở từng con chiên một. Theo truyền thống Thánh Kinh về vị Mục Tử nhân lành, tình yêu của vị mục tử không chỉ được dành cho một đàn, một nhóm, mà còn dành cho từng con chiên, từng người một. Ngài chú ý đến từng con và biết đến từng con một. Ngài biết bạn đang cần gì, Ngài cũng thấu hiểu điều cần cho tôi. Phần chúng ta, điều quan trọng là biết nhận ra Ngài, biết chạy đến với Chúa, và khiêm nhường cầu nguyện và tín thác hoàn toàn vào bàn tay nhân ái của Chúa, Đấng là Mục Tử nhân lành hay thương xót. Đấng nói với chúng ta rằng: “Ta chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Ta chính là Mục Tử nhân lành. Ta biết chiên của ta, và chiên của ta biết ta” (Ga 10,11-14).

Cái biết của tâm hồn luôn nối kết với cái biết của tri thức. Nói khác đi, cái biết mà Chúa Giê-su nhắc đến trong tinh thần của Phúc Âm thánh Gio-an là cái biết của tình yêu, của lòng thương xót. Thật đẹp thay, khi chúng ta nhận ra rằng, Chúa biết chúng ta nghĩa là Chúa luôn thương xót chúng ta. Và cũng thật đẹp thay, nếu chúng ta ý thức và cầu xin Chúa cho chúng ta có thể biết Chúa nghĩa là yêu thương Chúa với toàn bộ con người mình. Trong tình yêu Chúa và dựa vào lòng thương xót vô bờ của vị Mục Tử nhân lành, chúng ta được mời gọi sống phó thác hoàn toàn vào Chúa, như Thánh Vịnh gia nói, và lời này cũng được Chúa Giê-su dùng để cầu nguyện:

 “Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con.

Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín” (Tv 31,6).

 Lời Thánh Vịnh này là lời cầu nguyện mà Giáo Hội đưa vào giờ kinh tối mỗi ngày. Lời cầu nguyện này cũng là lời cầu nguyện của những ai khổ đau và bất hạnh. Trên Thánh Giá, Chúa Giê-su đã dùng lời Thánh Vịnh này để cầu nguyện với Cha trên trời: “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha” (Lc 23,46). “Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su trong lúc đau khổ này, là một tiếng kêu lớn của lòng tín thác tột độ và hoàn toàn vào Thiên Chúa. Lời cầu nguyện này diễn tả ý thức hoàn toàn của Người rằng Người đã không bị bỏ rơi…Những lời nói của Chúa Giê-su, sau khi cầu khẩn ‘Lạy Cha’, tiếp tục một diễn tả của Thánh Vịnh 31:‘Con xin phó linh hồn Con trong tay Cha’ (Tv 31,6). Tuy nhiên, những lời này không phải là một câu trưng dẫn đơn giản, nhưng thay vào đó, biểu lộ một quyết định vững chắc: Chúa Giê-su phó mình cho Chúa Cha trong một hành động hoàn toàn phó thác. Những lời này là một lời cầu nguyện trao phó, hoàn toàn tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa… Bây giờ, sự sống sắp sửa rời Người, Người đóng ấn lời cầu nguyện của Người trong quyết định cuối cùng: Chúa Giê-su tự cho phép mình bị nộp ‘vào tay người ta’, nhưng chính trong tay Chúa Cha mà Người phó linh hồn, vì vậy, như thánh sử Gio-an nói, mọi sự đã hoàn tất, hành động tối cao của tình yêu đã được thực hiện đến cùng, đến giới hạn và vượt quá giới hạn”.[3]

 Theo gương Chúa Giê-su, biết bao người đã chìm sâu trong cầu nguyện và tín thác hoàn toàn vào bàn tay nhân ái và hay thương xót của Chúa, khi họ rơi vào trong những hoàn cảnh khổ đau. Qua chính việc cầu nguyện, tin tưởng và phó thác hoàn toàn vào Chúa, họ tìm lại được bình an cho cuộc sống. Đấng là Mục Tử nhân lành hay thương xót luôn ở cùng họ, khi họ bước vào lũng âm u của cuộc đời. Lũng âm u đó là những bất nhân, là những kết án và chụp mũ, là những lời nói, những mưu mô và hành động ác độc. Lũng âm u với sự dữ là chủ và luôn nhăm nhe nuốt chửng đời người trong màn đêm tăm tối. Đừng sợ, dù phải bước đi trong màn đêm u tối. Trong đêm đen của cuộc đời, đừng quên cầu nguyện, đừng bao giờ sợ hãi đến nỗi vung tay khỏi ra khỏi bàn tay Chúa. Ngài là nguồn của ánh sáng đang nắm lấy đôi tay nhỏ bé của mỗi người, ngay tại trong đêm đen đang phủ lấp cuộc đời. Ngài ở đó và Ngài biết tất cả. Điều ấy đủ cho chúng ta rồi. Khi tin tưởng hoàn toàn vào Chúa – Mục Tử nhân lành hay thương xót, chúng ta sẽ ung dung đi lại, hít thở và sống khoẻ vào mọi lúc, ban ngày cũng như ban đêm; và ở mọi nơi, trên đồng cỏ xanh tươi cũng như khi rảo bước qua lũng âm u. Đừng lo toan quá sức đến nỗi không để Chúa là Đấng chăn chiên lo với chúng ta. Có Ngài ở bên và chăm lo, mọi giây phút của cuộc đời chúng ta không còn vướng bận ưu tư cho những giây phút kế tiếp.

 Tuy nhiên, đời người luôn lại phải đối diện với ngõ cụt, với những giây phút thê thảm và bất hạnh nhất ? Lúc đó cầu nguyện như thế nào để tìm lại được bình an? “Làm sao chúng ta dâng lên Chúa những giây phút đen tối nhất, khủng hoảng nhất? Làm sao chúng ta cầu nguyện khi đang ở trong trạng thái cô đơn cùng cực nhất, vô vọng nhất, và cả cuộc đời chúng ta dường như đang sụp đổ? Chúng ta có thể học ở Chúa Giê-su, cách Ngài cầu nguyện đêm trước ngày Chúa bị tử nạn trong vườn Giếtsêmani, ngày đen tối nhất cuộc đời Ngài…Tin Mừng mô tả như sau: Chúa Giê-su đi ra xa khỏi các môn đệ, khoảng một tầm ném đá, và sấp mình xuống đất mà cầu nguyện. ‘Abba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, nếu Cha muốn, xin hãy cất chén này khỏi con. Nhưng xin theo ý Cha, đừng theo ý con’. Và Ngài trở lại, thấy các môn đệ đang say ngủ. Nên Ngài lại đi vào vườn lần nữa, đau đớn cầu nguyện khẩn thiết hơn nữa, và mồ hôi Ngài đổ xuống đất như những giọt máu. Khi chỗi dậy, Ngài về lại với các môn đệ, thấy các ông vẫn ngủ, lòng Ngài đau buồn cùng cực. ‘Tại sao các con lại ngủ? Hãy dậy và cầu nguyện để đừng sa chước cám dỗ’. Và Ngài đi cầu nguyện lần thứ ba, một thiên thần đến và tăng sức cho Ngài, rồi Ngài đứng dậy mạnh mẽ đối diện với những gì sẽ đến. Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su trong vườn Giếtsêmani có thể là lời cầu nguyện mẫu để chúng ta biết cách cầu nguyện khi ở trong cơn khủng hoảng. Qua lời cầu nguyện của Chúa, chúng ta có thể nhấn mạnh bảy điểm, mỗi điểm cho chúng ta những điều kiện để biết cách cầu nguyện trong những lúc đen tối nhất đời mình:

(1) Lời cầu nguyện xuất phát từ tâm hồn cô đơn của Chúa: Tin Mừng nhấn mạnh điều này khi mô tả việc cầu nguyện diễn ra trong một khu vườn (hình ảnh tượng trưng cho tình yêu) và cả trong việc Chúa đi xa khỏi các môn đệ yêu dấu một tầm ném đá vì các ông không đủ sức lĩnh hội những gì Ngài đang trải qua. Trong cơn khủng hoảng sâu sắc nhất của mình, chúng ta luôn luôn cô độc trong đau đớn, xa khỏi mọi người trong một tầm ném đá. Lời cầu nguyện sâu đậm sẽ phát đi từ đó.

(2) Cầu nguyện với tâm tình mật thiết: Chúa Giê-su bắt đầu cầu nguyện bằng tiếng gọi Cha Ngài, ‘Abba’, tiếng gọi thân mật nhất có thể, tiếng một đứa con nhỏ sẽ nói lên khi ngồi trong lòng  cha mình. Trong những giờ tăm tối nhất, chúng ta phải biết thân mật với Thiên Chúa.

(3) Cầu nguyện từ tấm lòng chân thành trọn vẹn: Theo kinh viện, cầu nguyện được định nghĩa là “nâng tâm trí và tâm hồn lên cùng Thiên Chúa”. Chúa Giê-su đã làm như thế, và làm một cách triệt để, với lòng chân thật cháy bỏng. Ngài xin Chúa Cha cất khỏi thống khổ này, xin cho Ngài một lối thoát. Nhân tính của Ngài run rẩy sợ hãi trước bổn phận này, và Ngài xin được giải thoát. Đó chính là lời cầu nguyện trung thực và chân thật nhất.

(4) Cầu nguyện từ sự bất lực hoàn toàn: Ngài nằm dài trên đất, chẳng ảo tưởng chút gì về sức mạnh của bản thân. Trong lời cầu nguyện của Chúa Giê-su, có lời van xin rằng nếu Thiên Chúa làm điều này với Ngài, thì Người phải cho Ngài sức mạnh để thực hiện nó.

(5) Cầu nguyện từ sự mở lòng, bất chấp sự kháng cự trong bản thân mình: Thậm chí khi run rẩy đến rúm người trước điều sắp phải trải qua, và xin được giải thoát, Chúa Giê-su vẫn trao cho Chúa Cha quyền quyết định tuyệt đối trên tự do của Ngài. Lời cầu nguyện của Ngài mở lòng để đón nhận thánh ý của Chúa Cha, nếu đó là điều tuyệt đối Ngài phải làm.

(6) Cầu nguyện liên lỉ: Chúa Giê-su lặp lại lời cầu nguyện trên nhiều lần, và càng lúc càng khẩn thiết, mồ hôi máu của Ngài không chỉ đổ một lần, nhưng nhiều lần.

(7) Cầu nguyện là sự biến đổi: Cuối cùng, một thiên thần (sức mạnh thiêng liêng) đến và tăng sức cho Ngài, rồi dựa vào một sức mạnh mới đến từ ngoài bản thân, Ngài tự phó mình cho điều mà Chúa Cha muốn Ngài trải qua. Nhưng sức mạnh đó chỉ có thể tuôn chảy trong Ngài sau khi, qua sự bất lực của mình, Ngài đã không cậy dựa vào sức mình. Chỉ sau khi đã trải qua sa mạc lòng khô khốc, chúng ta mới mở lòng để sức mạnh Thiên Chúa tuôn đổ vào mình.

Trong quyển sách ‘Tiến bước tới tự do’, Martin Luther King đã kể lại chuyện một đêm nọ, sau khi bị dọa giết, ông đã hoang mang, hoảng sợ, và cũng không khác gì Chúa Giê-su trong vườn Giếtsêmani, ông đã nằm rạp xuống sàn trong nỗi sợ, cô đơn và bất lực – rồi cầu nguyện. Ông cảm nhận lời cầu nguyện đêm đó như tiếng van nài xin Thiên Chúa cho ông tìm được phương thế đường đường chính chính để thoát khỏi tình trạng này, nhưng Thiên Chúa muốn một điều gì đó khác nơi ông. Và đây là những lời cầu nguyện của ông trong đêm đó: ‘Nhưng giờ con sợ hãi. Người ta tìm đến nhờ con lãnh đạo, và nếu con đứng lên dẫn đầu họ mà trong con chẳng có sức mạnh và can đảm, thì họ cũng sẽ nao núng. Con đã cạn kiệt sức lực rồi. Con chẳng còn gì nữa. Đã đến lúc con phải tự mình đơn độc đối mặt với nó’.  Rồi ông nói thêm: ‘Chính lúc đó, con cảm nghiệm được sự hiện diện của Đấng Chí Thánh, một trải nghiệm con chưa có bao giờ’. Một thiên thần đã đến bên ông. Khi cầu nguyện thật tâm, thì cho dù nỗi đau của chúng ta có thế nào đi nữa, thiên thần của Thiên Chúa sẽ luôn luôn đến bên chúng ta”.[4]

Thiên Chúa giàu lòng thương xót luôn ở bên, và sự hiện diện của Chúa luôn đem lại bình an. Hơn nữa, sự hiện diện của Chúa còn mang một năng động lớn, là Ngài – vị Mục Tử nhân lành hay thương xót sẵn sàng lên đường khi cần phải cứu thoát một con chiên đang đi lạc. Thánh Luca diễn tả: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,4-7).

Liên hệ đến đoạn Thánh Kinh này, chúng ta để một vị giáo sư kể dụ ngôn về con chiên lạc sau đây: Người kia có nuôi một đàn chiên. Một hôm có một con chiên tìm thấy một lỗ hổng ở hàng rào nó vội chui qua. Nó chạy nhảy bên ngoài, mải mê vui thú, nó đi xa quên cả đường về. Trời sắp tối, nó giật mình thấy bóng dáng một con chó sói đang rình rập từ một lùm cây bên cạnh. Vô cùng sợ hãi nó chạy bán sống bán chết, nhưng con sói dữ tợn vẫn nai lưng đuổi theo nó.

Khi con sói đã gần kề thì may mắn thay người chăn chiên vừa kịp về đến, đánh đuổi con sói và cứu lấy con chiên, ông vác nó trên vai đem về chuồng. Tất cả mọi người thấy vậy bảo người chăn chiên bít lỗ hổng nơi hàng rào lại đề phòng về sau. Nhưng người này từ chối và cứ để như vậy.

Con chiên lạc trong câu chuyện trên đây chính là mỗi người chúng ta. Thiên Chúa yêu thương dựng nên con người chúng ta có tự do. Thật vậy, không tự do thì không có tình yêu, và tự do sẽ không thật là tự do, nếu thiếu vắng trách nhiệm, mà trách nhiệm thì luôn hướng về Chân Thiện Mỹ. Nhưng khốn thay, ngay từ đầu sự tự do Chúa yêu thương ban, đã bị nhiều người lạm dụng và tiếp tục lạm dụng, nghĩa là nhiều người đã và đang đui mù quay lưng với Chân Thiện Mỹ và chạy theo biết bao cám dỗ của sự dữ, của cái tôi. Hậu quả là sự dữ đã du nhập và tiếp tục du nhập vào thế gian.

Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương thì Ngài yêu thương cho đến cùng. Tình yêu đó được diễn tả mạnh mẽ và rõ ràng qua việc vị Mục Tử không chấp nhận sự nhàn hạ thảnh thơi, không hài lòng với khung cảnh thanh bình trong ngôi nhà và trong thánh đường của Ngài. Mà nếu chỉ nghỉ ngơi và thanh thản ngồi hưởng cảnh yên bình thư thái, thì làm sao có được niềm vui đích thực, vì còn biết bao con chiên đang lạc đàn và đang ở đâu đó trong góc phố đen đủi của cuộc đời chờ đợi ơn cứu rỗi.

Cần phải lên đường, cần phải đứng dậy và rời khỏi nơi yên bình thư thái, để đi tìm cho được con chiên lạc đàn. Thật vậy, niềm vui lớn lao của đời phục vụ là khi tìm thấy những con chiên lạc đàn. Một ngày vất vả ngược xuôi, lao công và vất vả, nhưng thật là vui mừng quên cả mệt nhọc, khi tìm được con chiên lạc và đưa trở về. Đêm về, người mệt lả nhưng lòng thì phấn khởi mừng vui, miệng nở nụ cười sâu lắng của lòng Chúa xót thương. Ôi đẹp thay, hình ảnh của người mục tử vác con chiên lạc đàn trên vai và đưa về lại đàn chiên yêu dấu. Con chiên đó giờ đây được ở bên Chúa, được ở trong thánh đường của Chúa, và sự hiện diện của Chúa luôn đem lại bình an, vì Ngài chính là bình an đích thật. Bình an lúc ban ngày, cũng như bình an lúc ban đêm.

“Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ” (Tv 4,9a).

“Giấc ngủ là phúc lành Chúa tặng cho ban đêm, cũng như bình an là phúc lành Chúa ban cho ban ngày, và giấc ngủ sẽ đến nơi nào có bình an. Chúa đã ban cho con bình an giữa ngàn vạn bươn chải của ngày sống, giữa ganh ghét của người đời, giữa lo toan của công việc và rối bời của những quyết định. Chúa đặt nơi lòng con niềm hoan lạc hơn là buổi người ta được mùa lúa rượu đầy dư, và sự quan tâm Chúa dành cho con lúc ban ngày đã yêu thương dìu con vào giấc điệp ban đêm”.[5] Thật hạnh phúc, khi được sống trong sự quan phòng thật lớn lao dường nào. Hạnh phúc được sống trong an bình của Đấng là bình an. Hạnh phúc được sống theo sự hướng dẫn của Mục Tử nhân lành trên những nẻo đường của cuộc sống. Lạy Thiên Chúa, Chúa là Đấng hay thương xót và chăn dắt con, con sẽ không thiếu gì. 

“Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ

vì chỉ có mình Ngài, lạy CHÚA,

ban cho con được sống yên hàn” (Tv 4,9).

 “Con hiểu nỗi lo sợ của những người phiêu bạt giữa hoang mạc mỗi khi ngả lưng…Con biết họ lo sợ dã thú có thể tấn công lúc tối trời, lo sợ ác nhân có thể tìm đến trả thù giữa đêm khuya, lo sợ bộ tộc thù địch có thể bất thần mở cuộc công hãm giữa lúc mọi người đang mê mệt. Và con cũng biết những nỗi lo sợ của bản thân mình. Sợ một ngày mới, sợ phải đương đầu với cuộc sống, sợ phải trực diện với bản thân giữa lúc tranh sáng tranh tối của một buổi bình minh mới. Sợ phải cạnh tranh, sợ phải thất bại, sợ không thể kiên định để sống đúng với địa vị của mình, để đáp ứng với những kỳ vọng, để thực thi các vai trò, hoặc khó hơn nữa là sợ không thể phớt lờ những kỳ vọng ấy và khước từ những vai trò mà con biết mình muốn làm, nhưng lại không đủ sức thực hiện. Con sợ đặt lưng xuống giường, vì biết đâu sẽ không bao giờ trỗi dậy; con sợ phải thức dậy để rồi phải kéo lê công việc nhàm chán của kiếp sống. Đó là nỗi lo sợ của bản năng làm trì nặng cuộc sống của con, nhưng thần dược chữa lành lại ở nơi Chúa”[6], Đấng hay thương xót và Đấng là bình an đích thật, Ngài canh chừng cho con an giấc và với côn trượng trên tay, Ngài giữ gìn cho con vững dạ an tâm tiến lên phía trước. Sự hiện hiện của Chúa là bảo đảm của đường đời con đi, Lời của Chúa là ánh sáng soi lối con tiến tới, sự đồng hành của Chúa là sức mạnh của con. Thật vậy, ở bên Chúa, với Chúa và trong Chúa, tâm hồn, thân xác và toàn bộ con người con tràn ngập an bình. Trong sự an bình thanh thản con còn được: 

“Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa” 
(Tv 23,5).

 Cuộc sống vẫn có ban ngày và ban đêm. Cuộc đời vẫn phảng phất mùi vị của niềm vui và đau buồn. Mọi sự hình như vẫn thế. Đúng vậy, Đấng là Mục Tử nhân lành hay thương xót vẫn muốn chúng ta tiếp tục ở lại trong thế giới của mình, chúng ta vẫn phải rảo bước qua những lũng âm u trên hành trình của cuộc sống. Nhưng giờ đây có Chúa hiện diện ở bên. Hơn nữa, Ngài mời gọi chúng ta ngồi vào bàn tiệc với Ngài. Chính Mục Tử nhân lành chuẩn bị bàn tiệc này cho chúng ta. Bạn có thể mường tượng được ngồi cùng bàn ăn với Thiên Chúa không? Được ngồi vào bàn ăn của Chúa là một hồng phúc lớn lao. Hơn nữa, điều thú vị ở đây là, bàn tiệc với Thiên Chúa lại diễn ra ngay trước mặt quân thù. Như thế, chúng ta vẫn là con người trước đây, thế giới sống hằng ngày của chúng ta vẫn vậy. Ðiều đặc biệt là giờ đây chúng ta có Thiên Chúa tại bàn ăn. Vì vậy, chúng ta chẳng sợ gì.

Tình yêu của Thiên Chúa che chở chúng ta, đem lại cho chúng ta sự bình an. Tình yêu ấy còn xức dầu thơm lên đầu chúng ta, rót vào ly cuộc đời chúng ta chan chứa ân tình. Mà thương lắm và quý trọng khách lắm gia chủ mới xức dầu thơm lên đầu, và không ngừng châm chén rượu luôn đầy tràn chan chứa. Đối với Thiên Chúa, chúng ta là những người con yêu dấu. Trong đôi mắt Ngài, từng người chúng ta thật quý giá. Vì chúng ta quý giá nên Ngài gìn giữ chúng ta và ban cho chúng ta sự bình an và lòng thương xót.

 Càng khi được đón nhận bình an và được Chúa ấp ủ trong lòng thương xót, thì con chiên của Chúa cần phải ra đi, cần phải lên đường đi vào giữa lòng xã hội và thế giới hôm nay, một thế giới tục hoá và có quá nhiều vấn đề phức tạp. Nơi đó, mỗi con chiên, mỗi Ki-tô hữu cần trở nên chứng nhân của Thiên Chúa tình yêu; nghĩa là các Ki-tô hữu cần có lòng thương xót như Cha trên trời (khẩu hiệu của năm Thánh), và bất cứ ai nhìn đến Ki-tô hữu, thì đều tìm được một ốc đảo từ bi thương xót (ĐTC. Phanxicô).

Thật vậy, lòng thương xót là lý tưởng sống và là tiêu chuẩn xác định xem niềm tin của mỗi Ki-tô hữu có đáng tín nhiệm hay không.

Mong sao lòng thương xót là luật căn bản ở trong tâm hồn mỗi Ki-tô hữu.

Mong sao lòng thương xót là xà nhà nâng đỡ cuộc sống của Giáo Hội.

Mong sao mỗi tín hữu có thể thốt lên từ sâu thẳm lòng mình: 

“Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên”
 (Tv 23,6).

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

—————-

[1] X. VALLES C.G. SJ, Psalm for contemplation – Thánh Vịnh để chiêm niệm, t.83.

[2] VALLES C.G. SJ, Psalm for contemplation – Thánh Vịnh để chiêm niệm, t.83.

[3] Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện của ĐTC Benedicto XVI ban hành trong buổi triều yết chung ngày Thứ Tư mùng 15 tháng 2 năm 2012 tại Đại Sảnh Phao-lô VI. Phao-lô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ. Nguồn: giaoly.org.

[4] ROLHEISER R, OMI., Bài viết Cầu nguyện trong cơn khủng hoảng (17.3.2013), nguồn: http://ronrolheiser.com

[5] VALLES C.G. SJ, Psalm for contemplation – Thánh Vịnh để chiêm niệm, t.31.

[6] VALLES C.G. SJ, Psalm for contemplation – Thánh Vịnh để chiêm niệm, t.32.

>> Mục Lục [12]

Chia sẻ Bài này:
[13] [14] [15]