Bên Bờ Giếng Nước

Nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị tống ngục, và bọn Biệt Phái bắt đầu lo âu bất mãn, vì Ngài được nhiều môn đệ hơn ông Tẩy Giả, Chúa Giêsu tạm gián đoạn việc truyền giáo ở xứ Giuđêa để lui về xứ Galilêa là quê quán. Ngài biết nơi đây không khí nhẹ nhàng dễ thở, khiến hạt giống Phúc Âm của Ngài gieo trông có cơ kết quả mỹ mãn. ( Vể xứ Galilê Chúa Giêsu truyền đạo ở đó chừng một năm rưỡi, nhưng dịp đại lễ Ngài cũng lên thành Jêrusalem )

Theo tục lệ, từ Giuđêa đến xứ Galilêa, người Do Thái thường đi lối sông Jordan chứ không đi lối Samaria. Vì đối với họ, Samaria là con đường nhơ bẩn, sặc mùi hôi tanh của tà thần. Nguyên người xứ Samaria cũng thuộc giống nòi Do Thái, nhưng một số đông đã lai với người Assyriô từ ngày Do Thái bị đày sang Babylon. Do chỗ tạp chủng đó, phong tục xứ Samaria dần dần mất vẻ khiết tịnh, lẫn vết nhơ ngoại giáo. Người xứ Samaria lại đi ngược với quan niệm tổ tiên là dám xây đền thờ trên núi Gazirim, và hình như không cần đếm xỉa đến Đền thánh Jẹrusalem. Vì thế nên những người Do Thái ở xứ Giuđêa và Galilêa coi họ như người ngoại bang, như những kẻ lạc đường không nên lui tới. Đối với những người xứ Samaria cũng khinh ghét bọn Do Thái chính tông kia và tìm cách ngăn cản việc giao thông thương mại.

Nhưng với Chúa Giêsu, Ngài không thấy cớ gì chính đáng phải tránh mặt người xứ Samaria cả. Hơn nữa đích cao siêu của Ngài là truyền đạo, đem bốn bể lại một nhà, nhận người năm châu làm con một Cha Cả. Nên Ngài đã qua xứ Samaria về xứ Galilêa.

Xét về địa dư, Samaria là con đường gần nhất nối với xứ Giuđêa và xứ Galilêa. Xét về địa thế, Samaria tuy chưa có phong cảnh dịu dàng như xứ Galilêa nhưng đã bớt phần khô khan hơn xứ Giuđêa. Samaria có những dãy cao nguyên rộng, đi đôi với những rặng núi dài, để chảy xuống đồng bằng những con đường tha thướt. Một trong những cánh đồng nổi tiếng của xứ đó, là cánh đồng ở gần thành Sichar ( cũng gọi là Sichora ) một cánh đồng ông Giacóp tổ phụ đã trối cho ông Giuse và trong đó có giếng nước trong lành, quen gọi là giếng Giacóp Giếng nước này sâu 30 thước đã sống được hơn 3500 tuổi, và hiện nay còn di tích tồn tại.

Đã trưa…. Khí trời nóng nực, Chúa Giêsu và đoàn môn đệ tới gần thành Sichar. Ngài đi đường mệt nhọc, và ngồi nghỉ bên bờ giếng. ( Chung quanh giếng có xây chỗ để ngồi ) Còn đoàn môn đệ vào thành mua thức ăn. Một lúc có người thiếu phụ Samaria ra giếng xách nước (kín nước), đầu đội chiếc vò, tay xách cái thùng buộc giây.

Chúa Giêsu ôn tồn hỏi :

–Cho Ta uống nước với.

Nhìn qua những đường tua ở gấu áo và khuôn mặt, người thiếu phụ nhận ra đó là một người Do Thái. Nàng ngạc nhiên ; ông Do Thái này không biết những chuyện giữa người Do Thái và người xứ Samaria hay sao mà lại xin nước uống ? Ông này hẳn là khát lắm mới xin. Thôi ! Cho cũng là một ân huệ. Theo đà thiện tâm tốt bụng, nàng thả thùng nước xuống múc đưa cho Chúa Giêsu, miệng lẩm bẩm :

–Sao ông là người Do Thái mà lại xin tôi là người Samaria cho nước uống ? Người Do Thái hiện đang tuyệt giao với người Samaria kia mà !

Chúa Giêsu nghiêm nghị :

–Nếu con biết ơn Thiên Chúa, và biết ai xin nước uống, ắt hẳn con sẽ xin nước uống trước và Ngài sẽ cho con một thứ nước vĩnh hoạt.

Người thiếu phụ ra vẻ tự cao :

–Ông không có gì để kín nước, mà giếng lại sâu, thế ông lấy nước ở đâu ra mà cho tôi

Hay ông làm được phép lạ ? Tôi thiết nghĩ :ông chẳng cao cả hơn ông Giacóp là tổ phụ chúng tôi. Chính ngài đã đào giếng này cho gia đình và đoàn vật Ngài uống và đã trối cho chúng tôi.

Chúa Giêsu tha thứ, ngắt lời, đưa câu chuyện lên cao :

–Ai uống nước giếng này hãy còn khát và khát mãi. Nhưng ai uống nước Ta ban sẽ không khát nữa. Người ấy sẽ cảm thấy trong mình một mạch nước không bao giờ cạn, một mạch nước dâng lên tới sự sống đời đời.

Người thiếu phụ đến kín nước ở giếng này nhiều lần và đã từng phải chịu nóng bức như rang. Giờ đây được nghe có một thứ nước lạ ; uống vào không khát, lòng cảm thấy vui, ước ao có thứ nước đó ; để ít ra khỏi phải đi ra giếng kín nước ngày hai ba bận.

–Thưa ông ! Vậy xin ông cho tôi thứ nước đó, để tôi không khát nữa và khỏi phải khó nhọc đến kín nước ở đây.

Chúa Giêsu mỉm cười, đẩy câu chuyện đi xa hơn nấc nữa :

–Con hãy đi gọi chồng con và dẫn đến đây

Người thiếu phụ đỏ mặt :

–Tôi không có chồng.

Nàng cố giữ vẻ tự nhiên, nhưng Chúa Giêsu đã thấu suốt sự thật, đọc tắt qua những thiên bí mật của đời nàng :

–Đúng thế ! Con không có chồng, vì con đã qua năm lần kết bạn, và người hiện đang ở với con, cũng không phải là chồng con. Về chỗ đó quả con đã nói theo sự thật.

Thấy đời tư mình bị bại lộ, người thiếu phụ hổ ngươi. Nàng lơ đảng nhìn bệ xây bên bờ giếng và nói với Chúa Giêsu :

–Thưa ông ! Tôi tin chắc ông là một tiên tri.

Rồi nàng nói lảng sang chuyện khác, tay chỉ về phía núi Garizim :

–Thưa ông. Tổ phụ chúng tôi vẫn thờ phượng trên núi cao này. Thế mà người Do Thái lại dám quả quyết chỉ được thờ phượng Chúa ở Jêrusalem thôi.

Thấy trong lòng người thiếu phụ đã hiện rõ niềm khiêm cung,xen lẫn với những tư tưởng tôn giáo. Chúa Giêsu trịnh trọng tuyên ngôn :

–Hỡi người thiếu phụ hãy tin Ta. Đã gần đến giờ người ta không thờ phượng Đức Chúa Cha ở trên núi này hay ở Jêrusalem nữa. Giờ đó là lúc những linh hồn chân thành giữ đạo, phải thờ phượng Đức Chúa Cha theo tinh thần và sự thật, vì Đức Chúa Cha chỉ ưng thuận những người chân thành như thế. Thiên Chúa thiêng liêng nên những người thờ phượng Thiên Chúa cũng phải thờ phượng Người theo tinh thần và sự thật.

Người thiếu phụ càng tỏ vẻ khiêm cung, suy nghĩ, Chúa Giêsu giảng rõ rệt hơn :

–Các con thờ phượng Thiên Chúa mà các con không biết rõ Người. Còn chúng ta người Do Thái, chúng ta biết rõ Đấng chúng ta thờ. Vì vậy mà ơn cứu rỗi sẽ bởi người Do Thái xuất hiện.

Người thiếu phụ chưa hiểu hết ý nghĩa ẩn trong lời Chúa. Nàng mới nhận Ngài là một tiên tri, nàng nghĩ, âu Ngài cũng trông đợi Chúa Cứu Thế đến như bao người khác. Nàng thân mật :

–Tôi biết Chúa Cứu Thế sẽ chỉ dạy chúng ta mọi sự .

Trước cử chỉ tín nhiệm đơn sơ của người thiếu phụ, Chúa không nghi ngại nữa Ngài phán :

–Chúa Cứu Thế chính là Ta đang nói với con.

Cùng lúc ấy đoàn môn đệ trở về.

Mấy tiếng Chúa Cứu Thế chính là Ta đã làm đảo lộn tâm hồn người thiếu phụ. Nàng nhìn Chúa Giêsu với cả một niềm kính mến. Nàng vội chạy vào thành, để quên chiếc vò bên bờ giếng, gặp ai cũng kêu to : Các ông hãy ra xem một người biết cả đời dĩ vãng bí mật của tôi. Các ông hãy xem hay người đó chính là Chúa Cứu Thế và nàng nói cách thành thực đến nỗi nhiều người trong thành chạy ra xem…

Thấy Chúa Giêsu nói chuyện với một thiếu phụ, các môn đệ ngạc nhiên. Nhưng đều thủ lễ không ai dám hỏi Chúa Thầy cần gì không hay Thầy truyền gì cho người thiếu phụ

Các ông chỉ mở bao và mời Chúa : Xin Thầy dùng chút của ăn

Nhưng Chúa Giêsu tuyên ngôn như người ở thế giới khác lại :

–Cám ơn ! Ta ăn thứ đồ ăn mà các con không biết.

Môn đệ nhìn nhau ; hay có ai ( hoặc dễ chừng người thiếu phụ cũng nên) đã mang đồ ăn cho Ngài. Thấy vậy, Chúa nói rõ thêm :

–Của ăn của Ta là hành động theo ý Đấng đã sai Ta, là hoàn tất công việc của Người

Nhưng những người thành Sichar đã tuôn đến. Họ bị kích thích nhiều bởi câu nói của người thiếu phụ Người biết cả cuộc đời dĩ vãng bí mật của tôi Tâm hồn họ tin tưởng, phơi phới những hoa hy vọng tốt đẹp.

Chúa Giêsu âu yếm nhìn đoàn môn đệ, và chỉ tay vào cánh đồng Sichar, nói với các ông một ẩn dụ :

Người ta nói còn bốn tháng nữa mới đến mùa. Nhưng các con hãy nhìn cánh đồng đây, nó đã trắng phau (Chúa Giêsu không nói Lúa đã chín vàng vì xứ Palestine thiếu nước mưa, nên lúa thường chín trắng ) báo hiệu mùa sắp đến. Phải rồi ! Mùa gặt linh hồn đang đợi các con.

Thợ gặt sẽ được thưởng, mà phần thưởng đó là sự sống bất diệt ở bên kia. Người gieo giống cũng như người gặt, cả hai đều vui như nhau. Lời tục ngữ Có người gieo, có kẻ gặt là thế đó. Nay ta sai các con đi gặt những cánh đồng các con chưa gieo. Biết bao người đã tốn công gieo rắc, mà các con sẽ được dự phần.

Bài ẩn dụ bị gián đoạn, vì số người ở Sichar đến mỗi lúc mỗi đông, không khí mất phần yên lặng. Họ cố nài Chúa ở lại Sichar, và Chúa cũng ở lại hai ngày. Quãng thời gian đó, ai ai được nghe và xem Chúa, cũng đều khâm phục Ngài.

Người thiếu phụ đã gặp Chúa bên bờ giếng nước, lấy làm hãnh diện lắm. Nhưng dân thành Sichar lại nói với nàng :

–Bây giờ chúng ta tin không phải vì lời nói của chị, nhưng chính vì chúng ta đã được nghe Ngài dạy bảo và chúng ta biết rõ Ngài là vị Cứu tinh thế giới.

Lm. Lâm Quang Trọng

Chia sẻ Bài này:

Related posts

Leave a Comment