- Legio Mariae – Đạo Binh Đức Mẹ - https://daobinh.com -

Cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Thánh Địa

Bầu khí chờ đợi Đức Thánh Cha Phanxicô

Phỏng vấn Linh Mục Ri’fat Bader, phát ngôn viên của Giáo Hội Giordania, và cha Pizzaballa, Bề trên tỉnh dòng Phanxicô quản thủ Thánh Địa

Trong ba ngày từ 24 tới 26 tháng 5 năm 2014 Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Giordania và Thánh Địa, nhân kỷ niệm 50 năm ngày Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Athenagora, Giáo chủ Chính thống giáo, gặp nhau tại Giêrusalem đầu tháng giêng năm 1964.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Linh Mục Ri’fat Bader, phát ngôn viên của Giáo Hội Giordania, và cha Pierbattista Pizzaballa, Bề trên tỉnh dòng Phanxicô quản thủ Thánh Địa, về bầu khí chờ đợi Đức Thánh Cha Phanxicô.

Hỏi: Thưa cha Bader, bầu khí chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Giordania ra sao?

Đáp: Có nhiều ủy ban làm việc ráo riết đêm ngày để chuẩn bị thành phố Amman một cách tốt đẹp nhất cho việc tiếp đón Đức Thánh Cha Phanxicô như thượng khách của nhà vua và toàn dân Giordania, cách riêng của Giáo Hội công giáo địa phương. Người ta có thể trông thấy các biểu ngữ chào mừng tại khắp nơi trên các đường phố thủ đô, với hình Đức Thánh Cha tiếp vua Abdullah tại nhà trọ thánh Marta hồi tháng 4 vừa qua, và đàng sau là thành phố Vaticăng và nơi Chúa Giêsu lãnh phép rửa bên sông Giordan. Tại sân vận động quốc tế thủ đô sẽ có thánh lễ thứ ba do một vị Giáo Hoàng chủ sự sau thánh lễ hồi Năm thánh 2.000 với Đức Gioan Phaolô II, và thánh lễ hồi năm 2009 với Đức Thánh Cha Biển Đức XVI. Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đến sân vận động vào lúc 3 giờ chiều và xe díp sẽ chở ngài đi một vòng để chào tín hữu và khách hành hương tham dự thánh lễ. Chúng tôi cũng tổ chức cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha với người tỵ nạn, người đau yếu tật nguyền bên cạnh nơi xưa kia Chúa Giêsu đã lãnh nhận Phép rửa. Chúng tôi đặc biệt cho phép các nhà báo chụp hình Đức Thánh Cha xuống bờ sông Giordan để làm phép nước sông, cũng như Đức Phaolê VI đã làm cách đây 50 năm. Đây là điều đã không có trong chuyến viếng thăm của Đức Gioan Phaolô II và Đức Biển Đức XVI.

Hỏi: Đâu là các hy vọng và các viễn tượng của các kitô hữu Giordania đối với chuyến viếng thăm này của Đức Thánh Cha Phanxicô thưa cha?

Đáp: Họ thực sự hạnh phúc và hãnh diện có thể gặp vị Giáo Hoàng thu hút tín hữu trong 14 tháng đầu tiên triều đại của người. Họ sung sướng vì được gặp gỡ vị Giáo Hoàng của ”những người rốt hết”, vị Giáo Hoàng ước mong một ”Giáo Hội nghèo và của người nghèo”. Ngoài ra chúng tôi sung sướng tiếp đón vị Giáo Hoàng của công lý và hòa bình, người cầu nguyện rất nhiều cho hòa bình và công lý tại Siria, tại Irak và trên toàn thế giới.

Thật ra, không phải chỉ có cộng đoàn kitô Giordania chờ đợi Đức Thánh Cha, nhưng sẽ có rất đông tín hữu đến từ khắp nơi trong thế giới A rập và từ các nước khác. Đây sẽ là một buổi cử hành quốc tế, vì thế kitô hữu toàn thế giới được mời gọi cầu nguyện với Đức Thánh Cha. Chúng tôi chắc chắn Đức Thánh Cha sẽ cầu nguyện cho sự ổn định và nền an ninh của quê hương đất nước chúng tôi. Ngoài ra chúng tôi cũng chuẩn bị cầu nguyện cùng với các anh em tỵ nạn Irak, Siri. Chúng tôi chào mừng họ đến tham dự thánh lễ cùng với gia đình họ. Thật vậy, mục đích đầu tiên của toàn vùng Trung Đông là phải cùng với Đức Thánh Cha cầu nguyện cho hòa bình và công lý trong toàn vùng, để hiệp nhất mọi dân tộc và tái ổn định các vùng đất yêu qúy này của chúng tôi vẫn còn đang phải khổ đau. Đây phải là kết qủa đầu tiên của chuyến viếng thăm này: đó là đem lại các hoa trái hòa bình, ổn định và bình an trong vùng.

Hỏi: Thưa cha, thế còn đối với Vương quốc Hashemita, đâu là ý nghĩa của chuyến viếng thăm này?

Đáp: Có mối dây ý nghĩa nối liền hai kỷ niệm chúng tôi cử hành trong năm nay. Trước hết là kỷ niệm 50 năm chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI. Chuyến viếng thăm lần này là chuyến viếng thăm thứ tư của một vị Giáo Hoàng. Giordania là quốc gia duy nhất trên thế giới được bốn vị Giáo Hoàng viếng thăm trong vòng 50 năm qua. Đây là một niềm hãnh diện rất lớn cho đất nước Giordania và là một khích lệ tiếp tục thăng tiến các tương quan với Tòa Thánh. Chúng tôi rất hãnh diện vì cuộc đối thoại giữa các tín hữu kitô và tín hữu hồi đã đem lại các kết qủa tích cực tại Giordania và chuyến viếng thăm này của Đức Thánh Cha Phanxicô là một khích lệ tiếp tục con đường thăng tiến đối thoại liên tôn. Trong nghĩa đó nhà vua cũng như toàn dân Giordania đều coi trọng sự hiện diện của dân kitô a rập và muốn họ phải ở lại trong đất nước chúng tôi. Cuộc xuất hành của các tín hữu kitô khỏi vùng Trung Đông không chỉ thiệt hại cho chính các cộng đoàn kitô, mà cũng thiệt hại cho dân chúng hồi giáo nữa. Bởi vì hoàng gia Giordania và rất nhiều người hồi đang nỗ lực thăng tiến một hình ảnh tích cực của Hồi giáo như là một tôn giáo có khả năng tôn trọng các tôn giáo khác. Đây cũng là một mục đích và sự lo lắng chung của Tòa Thánh và nước Giordania, và nó sẽ được thăng tiến trong chuyến viếng thăm này của Đức Thánh Cha.

Hỏi: Thưa cha Bader, Đức Thánh Cha cũng sẽ gặp gỡ một nhóm các người tỵ nạn tại Bethany bên kia sông Giordan. Tình hình cuộc sống của hàng trăm ngàn người ty nạn hiện nay ra sao?

Đáp: Thật ra chúng tôi không có các thống kê chính xác, nhưng bên Giordania hiện nay có khoảng 1,3 triệu người tỵ nạn Siri. Chúng tôi cũng tiếp đón các người tỵ nạn Irak, đó là chưa kể tới người tỵ nạn Palestine muốn trở về quê hương của họ. Vì thế tôi tin rằng Giordania vẫn luôn luôn là một vùng đất nổi tiếng đối với sự hiếu khách và rộng mở, như Đức Gioan Phaolô II đã nói khi viếng thăm Aman ngày 20 tháng 3 năm 2000. Nhưng hai giá trị này đòi hỏi nhiều dấn thân và giá cao phải trả. Giordania là một quốc gia bé nhỏ, có tình hình kinh tế khó khăn và cũng đau khổ vì sự bất ổn chính trị trong vùng. Đã vậy chúng tôi lại phải tiếp đón các anh chị em tỵ nạn này, có người ở trong các trại có người ở ngoài. Chúng tôi phải đặc biệt cám ơn tổ chức Caritas Giordania đã làm việc rất cực nhọc để bảo đảm thực phẩm và chỗ ở cho người tỵ nạn. Chúng tôi trợ giúp tất cả mọi người vì họ là thụ tạo của Thiên Chúa. Và như dấu chỉ phần đóng góp của Giáo Hội sẽ là cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha với các bệnh nhân và người tỵ nạn. Sẽ có nhiều người hồi trong nhà thờ gần Betany bên kia sông Giordan. Đức Thánh Cha không đến để cải đạo của họ, nhưng để cho thấy tình yệu thương của Thiên Chúa, tình yêu thương của Chúa Giêsu đối với tất cả mọi người.

** Sau đây là một số nhận định của Linh Mục Pierbattista Pizzaballa, Bề trên tỉnh dòng Phanxicô Quản Thủ Thán Địa.

Hỏi: Thưa cha Pizzaballa, cha nghĩ gì về chuyến công du Thánh Địa của Đức Thánh Cha Phanxicô?

Đáp: Chuyên viếng thăm của Đức Thánh Cha có tính cách khích lệ đặc biệt đối với toàn cộng đoàn kitô tại Thánh Địa, chứ không phải chỉ đối với cộng đoàn công giáo mà thôi. Nó sẽ là một khích lệ đối với sự hiện diện của các kitô hữu, và là một an ủi, nhất là với cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phu Bartolomaios I tại Mộ Thánh. Nó sẽ là một dấu chỉ lớn và là một cử chỉ hiệp nhất giữa tất cả mọi kitô hữu trên thế giới và nhất là tại Thánh Địa.

Hỏi: Như thế là có sự chờ đợi rất lớn đối với buổi cử hành đại kết lịch sử này trong Vương cung thánh đường Thánh Mộ?

Đáp: Vâng, sự chờ đời rất lớn. Việc chuẩn bi đã xong. Có sự cuồng nhiệt và kích thích rất lớn.

Hỏi: Người Do thái và người Hồi giáo nhìn chuyến viếng thăm này như thế nào thưa cha?

Đáp: Đã có vài chuyện có lẽ đã phá rối bầu khí tươi vui. Nhưng tôi phải nói rằng từ phía do thái cũng như từ phía hồi giáo có sự tò mò rất lớn và một thái độ rất tích cực đối với Đức Thánh Cha Phanxicô, được tất cả mọi người thương mến.

Hỏi: Đã có gì còn lại trong các chuyến viếng thăm trước đây của Đức Gioan Phaolô II và Đức Biển Đức XVI?

Đáp: Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là vị Giáo Hoàng đầu tiên chính thức đến Israel, sau bao nhiêu năm, và là người đã có các cử chỉ rất quan trọng tại đài tưởng niệm cuộc diệt chủng do thái Yad Vashem cũng như tại Bức Tường Khóc và trong các đền thờ hồi giáo. Người đã để lại một kỷ niệm không phai nhòa: người đã thay đổi trong dư luận thành kiến đối với Giáo Hội công giáo. Còn Đức Biển Đức XVI thì đã để lại một kỷ niệm rất sâu đậm trong cộng đoàn kitô với các buổi cử hành và với các diễn văn rất mạnh mẽ và rõ ràng.

Hỏi: Sau thánh Phanxicô thành Assisi có một Phanxicô khác đến thăm Thánh Địa. Sự hiện diện của thánh Phanxicô thành Assisi tại quê hương của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì?

Đáp: Thánh Phanxicô thành Assisi với cử chỉ đơn sơ gặp gỡ Sultan vào thời đó đã bắt đầu một sự hiện diện của dòng Phanxicô vẫn còn tiếp tục cho đến nay. Và chính sự hiện diện đó đã duy trì sống động tương quan giữa Giáo Hội tây phương với Thánh Địa, và cũng đã giữ gìn sự hiện diện của kitô hữu trong bao thế kỷ qua. Việc Đức Thánh Cha Phanxicô đến viếng thăm Thánh Địa là một khích lệ tiếp tục con đường ấy và canh tân việc hăng say đối thoại và gặp gỡ cũng như giữ gìn, ghi nhớ và là những viên đá sống động.

Hỏi: Thưa cha, chuyến viếng thăm này có thể giải tỏa các bế tắc của các cuộc thương thuyết đã bắt đầu từ năm 1993 và dẫn đưa tới thỏa hiệp nền tảng giữa Tòa Thánh và nước Israel hay không?

Đáp: Thỏa hiệp nền tảng đã được thảo luận trong bao nhiêu năm nay rồi liên quan tới mọi đề tài và có một sự thỏa thuận chung. Giờ đây chỉ là việc kết thúc, và điều này cần một chút thời gian nữa. Trong ý hướng này người ta đã không gắn liền chuyến viếng thăm với một thỏa hiệp, vì muốn để cho Đức Thánh Cha được tự do khỏi các vấn đề ngoại giao, và trao ban cho chuyến viếng thăm một viễn tượng rộng rãi hơn.

Hỏi: Mỗi khi có chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng người ta lại nói đến việc nhà nước Israel trả lại Nhà Tiệc Ly cho Giáo Hội. Điều này có thể xảy ra không, và Dòng Quản tủ Thánh Đại sẽ phản ứng ra sao?

Đáp: Chúng tôi sẽ rất vui sướng. Thật ra cuộc thảo luận này đã sôi nổi nơi một số người do thái cũng như hồi giáo. Nói đúng ra người ta không nói đến việc trả lại, nhưng là sử dụng cho việc cử hành phụng vụ. Thế thôi. Và cũng đã có nhiều tranh cãi. Chúng tôi hy vọng chúng sẽ lắng dịu sau chyến viếng thăm của Đức Thánh Cha. Việc thảo luận còn đang tiếp tục. Đây là một nơi rất tế nhị, vì cả ba tôn giáo độc thần đều tranh nhau. Nhưng nó là dịp để cả ba tôn giáo thảo luận các vấn đề cụ thể, chứ không phải các nguyên tắc trừu tượng.

(RG 20-5-2014)

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Vương Quốc Giordani


AMMAN. Trưa ngày 24-5-2014, ĐTC Phanxicô đã đến thủ đô Amman của Giordani, chặng đầu tiên trong chuyến viếng thăm Thánh Địa trong vòng 3 ngày cho đến hết thứ hai, 26-5 tới đây, nhân dịp kỷ niệm 50 năm cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Phaolô 6 và Đức Thượng Phụ Athenagoras của Giáo Hội Chính Thống Constantinople, là vị đứng đầu trong tất cả các vị Thượng Phụ Chính Thống giáo.

Cuộc viếng thăm được giới báo chí quốc tế mô tả là rất khó khăn, xét vì tình hình địa phương, nhưng ĐTC đã đặt biến cố này dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria. Thực vậy, sáng thứ sáu 23-5-2014, ngài đã trở lại Đền Thờ Đức Bà Cả lần thứ 8 để cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma và phó thác cho Mẹ cuộc viếng thăm này.
Cuộc gặp gỡ cách đây nửa thế kỷ giữa Đức Phaolô 6 và Đức Thượng Phụ Athenagoras đáng kỷ niệm đặc biệt vì đã mở ra một trang mới trong lịch sử ngàn năm giữa hai khối Giáo Hội và chuyến viếng thăm lần này của ĐTC Phanxicô không những để kỷ niệm biến cố đó, nhưng còn nhắm tăng cường các quan hệ đại kết, và không quên phát triển cuộc đối thoại liên tôn với Hồi giáo.

Cùng đi với ĐTC trên chuyến bay dài 4 tiếng từ Roma có 30 vị thuộc đoàn tùy tùng và 70 ký giả quốc tế.
Vương quốc Giordani chỉ rộng gần 89 ngàn cây số vuông, bằng 1 phần 4 Việt Nam, nhưng lại rộng gấp quá 4 lần lãnh thổ của Israel và Palestine cộng lại, vì hai nước này chỉ có 20.700 cây số vuông, tuy rằng họ có dân số đông hơn, gần 8 triệu người, so với 6 triệu 400 ngàn dân cư của Giordani. Cũng vậy về con số tín hữu Công Giáo: tại Giordani chỉ có 107 ngàn tín Công Giáo, trong khi tại Israel và Palestine có 266 ngàn tín hữu Công Giáo, tức là gần gấp 3.

Tại Giordani có 3 giáo phận với 4 GM và 69 giáo xứ và 143 LM triều và dòng, 210 nữ tu. Các tín hữu Công Giáo la tinh ở Giordani thuộc quyền Tòa Thượng Phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem với Đức Thượng Phụ hiện nay là Fouad Twal, người Giordani.

Đón tiếp

Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được đại diện Quốc vương Abdullah II là hoàng thân Ghazi bin Muhammed, cố vấn trưởng về tôn giáo và văn hóa của quốc vương, tiếp đón, cùng với đại diện của giáo quyền, trong đó có Đức Thượng Phụ Fouad Twal, các GM và Cha Pierbattista Pizzaballa, Bề trên dòng Phanxicô tại Thánh Địa tiếp đón. Hai em bé, một trai một gái, dâng tặng ĐTC đóa hoa phong lan (orchidea) màu đen là biểu tượng của Vương quốc Giordani. Trong khi 200 trẻ em đón chào ngài bên trong sân bay và 2 ngàn em khác chờ ngài từ bên ngoài phi trường.

Có 10 người gia nhập phái đoàn chính thức của ĐTC sau khi ngài đặt chân lên đất Giordani, đặc biệt là Rabbi Do thái Abraham Skorka, Viện trưởng Học viện đào tạo Rabbi ở Buenos Aires, và Imam Hồi giáo Omar Abboud, Tổng thư ký tổ chức đối thoại liên tôn, cả hai đều là bạn của ĐTC từ khi ngài là TGM giáo phận thủ đô của Argentina.
Liền đó, ngài cùng với đoàn tùy tùng đi xe về hoàng cung Al-Husseini ở trung tâm thủ đô Amman cách đó 38 cây số nơi diễn ra nghi thức đón tiếp chính thức. Quốc vương và hoàng hậu Rania đón tiếp ĐTC ngay tại cổng vào hoàng cung và tiến qua đoàn quân danh dự.

Vua Abdullah 2 là cháu đích tôn 43 đời của Ngôn sứ Muhammad sáng lập Hồi giáo. Còn hoàng hậu Rania năm nay 44 tuổi là người Palestine sinh trưởng tại Kuwait.

Diễn văn đầu tiên của ĐTC

Trong lời đáp từ sau lời chào mừng của Vua Abdullah, ĐTC nói bằng tiếng Ý:

”Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì được viếng thăm Vương quốc Giordani, theo vết các vị tiền nhiệm của tôi Phaolô 6, Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16, và tôi cám ơn Quốc Vương Abdullah II vì những lời chào đón nồng nhiệt, nhớ lại cuộc viếng thăm mới đây của Quốc vương tại Vatican. Tôi cũng chào thăm Hoàng gia, chính phủ và nhân dân Giordani, đất nước có lịch sử phong phú và ý nghĩa lớn về mặt tôn giáo đối với Do thái, Kitô và Hồi giáo.

”Đất nước này quảng đại đón tiếp đông đảo ngừơi tị nạn Palestine, Irak và những người đến từ các vùng khác bị khủng hoảng, đặc biệt là từ Siria láng giềng, bị đảo lộn vì cuộc xung đột kéo dài đã quá lâu. Sự đón tiếp đó đáng được cộng đồng quốc tế ngưỡng mộ và hỗ trợ. Giáo Hội Công Giáo theo khả năng của mình, muốn dấn thân trong việc trợ giúp người tị nạn và những người sống trong cảnh túng thiếu, đặc biệt là qua trung gian của Caritas Giordani. ”Trong khi tôi đau lòng nhận thấy những căng thẳng cao độ vẫn kéo dài ở vùng Trung Đông, tôi cám ơn chính quyền của Vương quốc Giordani vì những gì đang thực hiện và tôi khích lệ tiếp tục dấn thân trong việc tìm kiếm hòa bình lâu bền mong ước cho toàn vùng; để đạt mục đích ấy, người ta thấy hơn bao giờ hết cần có một giải pháp hòa bình cho cuộc khủng hoảng ở Siria, và giải pháp công chính cho cuộc xung đột giữa Israel và Palestine.
”Nhân cơ hội này, tôi tái bày tỏ lòng kính trọng sâu xa và sự quí chuộng của tôi đối với Cộng đoàn Hồi giáo, đánh giá cao vai trò lãnh đạo của Quốc vương trong việc thăng tiến một sự hiểu biết thích hợp hơn về các nhân đức mà Hồi giáo tuyên dạy, cũng như sự sống chung thanh thản giữa tín đồ các tôn giáo khác nhau. Tôi biết ơn đối Giordani vì đã khích lệ các sáng kiến quan trọng cổ võ cuộc đối thoại liên tôn để thăng tiến sự cảm thông giữa người Do thái, Kitô và Hồi giáo, trong đó có sáng kiến ”Sứ điệp liên tôn từ Amman” và vì đã cổ võ giữa lòng LHQ việc cử hành hàng năm ”tuần lễ hòa hợp giữa các tôn giáo”.

”Giờ đây tôi muốn thân ái gửi lời chào thăm các cộng đoàn Kitô hiện diện tại đất nước này từ thời các thánh Tông Đồ, và đang góp phần xây dựng công ích của xã hội trong đó họ hoàn toàn hội nhập. Tuy ngày nay con số của họ bị giảm bớt, nhưng họ vẫn có cách thi hành một hoạt động có chất lượng cao và được quí chuộng trong lãnh vực giáo dục và y tế, qua các trường học và nhà thương, và họ có thể yên hàn tuyên xưng đức tin, trong niềm tôn trọng tự do tôn giáo là một quyền cơ bản của con người, và tôi nồng nhiệt cầu mong quyền này được đặc biệt tôn trọng ở mọi nơi tại Trung Đông cũng như trên toàn thế giới. Quyền này bao gồm tự do cá nhân và tập thể được chọn lựa tôn giáo mà mình tin là thật và công khai bày tỏ tín ngưỡng của mình” (Biển Đức 16, Tông huấn ”Giáo Hội tại Trung Đông”,26). Các tín hữu Kitộ cảm thấy và là những công dân đúng nghĩa và muốn góp phần vào việc xây dựng xã hội cùng với các đồng bào Hồi giáo của họ, đóng góp phần đặc thù của mình.

Sau cùng tôi đặc biệt cầu chúc hòa bình và thịnh vượng cho Vương quốc Giordani, cho nhân dân nước này, và tôi cầu mong cuộc viếng thăm này góp phần gia tăng và thăng tiến những quan hệ tốt đẹp và nồng nhiệt giữa các tín hữu Kitô và Hồi giáo”.

Ngài cũng ứng khẩu cám ơn Vua Abdullah đã bảo vệ cộng đồng Kitô tại Giordani và là một người hòa bình, người xây dựng hòa bình.

Cử hành thánh lễ đầu tiên

Giã từ hoàng gia Giordani, ĐTC đã tới sân vận động quốc tế Al-Hussein cách đó 11 cây số để cử hành thánh lễ lúc gần 3 giờ chiều cho các tín hữu.

Hiện diện tại Sân Vận động có 30 ngàn tín hữu, không kể hàng ngàn người khác tham dự thánh lễ từ bên ngoài qua các màn hình khổng lồ. Trong số các tín hữu có nhiều người tị nạn Công Giáo đến từ Palestine, Siria và Irak, đặc biệt có 1.400 em được rước lễ lần đầu trong thánh lễ này.

Đồng tế với ĐTC có 5 Hồng y thuộc đoàn tùy tùng của ngài, 6 HY khác đến từ các Giáo Hội địa phương, đứng đầu là ĐHY Becharai Rai, Giáo chủ Công Giáo Maronite từ Liban, ngoài ra có 6 vị Thượng Phụ, 115 LM, 60 phó tế và đan sĩ đến từ các nước Arập.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, ĐTC khai triển 3 hoạt động chính của Chúa Thánh Linh là chuẩn bị, thúc giục và sai đi. Ngài nói:
“Trong Tin Mừng chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu hứa với các môn đệ: ”Thầy sẽ xin Chúa và Người sẽ ban cho các con Đấng An ủi khác để Ngài ở lại với các con mãi mãi” (Ga 14,16). Đấng An ủi thứ I là chính Chúa Giêsu; Đấng thứ 2 là Chúa Thánh Linh.

”Ở đây chúng ta không xa nơi Chúa Thánh Linh đã ngự xuống trong quyền năng trên Đức Giêsu thành Nazareth, sau khi Gioan đã làm phép rửa cho Đức Giêsu trong sông Giordan (Xc Mt 3,16). Vì thế Tin Mừng chúa nhật này, và cả nơi mà nhờ ơn Chúa tôi ở đây như người hành hương, mời gọi chúng ta hãy suy tư về Chúa Thánh Linh, về điều mà Chúa thực hiện trong Chúa Kitô và nơi chúng ta, và chúng ta có thể tóm tắt thế này: Chúa Thánh Linh thực hiện 3 hành động: chuẩn bị, thúc đẩy và sai đi.

– ”Trong lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thánh Linh ngự xuống trên Đức Giêsu để chuẩn bị Người thi hành sứ mạng cứu độ; sứ mạng này có đặc tính như của một Đầy tớ khiêm hạ và hiền lành, sẵn sàng chia sẻ lịch sử cứu độ và tận hiến toàn toàn. Nhưng Chúa Thánh Linh, hiện diện ngay từ đầu lịch sử cứu độ, đã hoạt động trong Đức Giêsu khi Người được chịu thai trong lòng đồng trinh của Đức Maria thành Nazareth, thực hiện biến cố lạ lùng là sự nhập thể. Thiên Thần nói với Đức Maria: ”Chúa Thánh Linh đã bao phủ Trinh Nữ, sẽ che bóng cho Trinh Nữ và Trinh Nữ sẽ sinh Con và được đặt tên là Giêsu” (Xc Lc 1,35). Tiếp đến Chúa Thánh Linh đã hành động trong ông Simeon và bà Anna, trong ngày dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ (Xc Lc 2,22). Cả hai vị chờ đợi Đức Thiên Sai, được Chúa Thánh Linh soi sáng và đến thăm Hài Nhi Giêsu, cả hai trực giác thấy rằng đó chính là Đấng toàn dân mong đợi…

– Thứ hai, Thánh Linh thúc đẩy. Ngài đã xức dầu trong nội tâm cho Đức Giêsu và xức dầu cho các môn đệ, để họ có cùng tâm tình của Đức Giêsu và nhờ đó có thể đảm nhận trong đời sống của họ những thái độ tạo điều kiện dễ dàng cho hòa bình và hiệp thông. Với sự xức dầu của Thánh Linh, nhân tính của chúng ta được ghi đậm sự thánh thiện của Đức Giêsu Kitô và làm cho chúng ta có thể yêu thương anh chị em với cùng tình thương mà Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Vì thế, cần có những cử chỉ khiêm tốn, huynh đệ và tha thứ, hòa giải. Những cử chỉ này là tiền đề và điều kiện để có hòa bình chân thực, vững chắc và lâu bền. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Cha xức dầu chúng ta để chúng ta hoàn toàn trở thành những người con của Ngài, luôn phù hợp với Đức Kitô, để chúng ta cảm thấy tất cả là anh chị em và như thế xua đuổi khỏi chúng ta những oán hận và chia rẽ, đồng thời yêu thương nhau như anh chị em. Và đó là điều Đức Giêsu yêu cầu chúng ta trong Phúc Âm: ”Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ giới răn của Thầy, và Thầy sẽ xin Chúa và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng An ủi khác, để Người ở lại với các con mãi mãi” (Ga 14,15-16).

– Và sau cùng Chúa Thánh Linh sai đi. Đức Giêsu là Đấng Được Sai Đi, đầy Thánh Linh của Cha. Được xức dầu với cùng Thánh Linh, cả chúng ta cũng được sai đi như sứ giả và chứng nhân hòa bình.

”Hòa bình không thể mua được: đó là một hồng ân cần kiên nhẫn tìm kiếm và xây dựng một cách khéo léo nhờ những cử chỉ lớn nhỏ bao gồm đời sống hằng ngày của chúng ta. Con đường hòa bình được củng cố nếu chúng ta nhìn nhận rằng tất cả chúng ta có cùng máu mủ và là thành phần của nhân loại; nếu chúng ta không quên mình có một người Cha duy nhất trên trời và tất cả đều là con cảu Ngài được dựng nên theo hình ảnh giống Ngài.
ĐTC thân ái chào thăm Đức Thượng Phụ, các anh em GM và linh mục, tu sĩ giáo dân, các em Rước lễ lần đầu.. và ngài kết luận rằng:

”Các bạn thân mến, Chúa Thánh Linh đã ngự xuống trên Đức Giêsu cạnh sông Giordan, và khởi sự công trình cứu chuộc hầu giải thoát thế gian khỏi tội lỗi và sự chết. Chúng ta hãy xin Chúa chuẩn bị con tim chúng ta để gặp gỡ anh chị em vượt lên trên những khác biệt về tư tưởng,ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo; xin Chúa xức dầu toàn thể con người chúng ta bằng dầu từ bi của Ngài, chữa lành các vết thương sai lầm, thiếu cảm thông, tranh biện, và sai chúng ta đi với lòng khiêm tốn và từ bi trên những nẻo đường khó khăn nhưng phong phú trong công trình tìm kiếm hòa bình.

ĐTC giảng hoàn toàn bằng tiếng Ý, và sau bài giảng, có một Đức Cha dịch sang tiếng Arập.

Trong phần hiệp lễ, 118 LM và Phó tế đã phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu.

Cuối thánh lễ, Đức Thượng Phụ Fouad Twal đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC và nói đến những thách đố mà Giáo Hội địa phương đang phải đương đầu. Ngài nói: Thánh Địa bị quá nhiều chia rẽ, và Giáo Hội Công Giáo địa phương, đặc biệt là Tòa Thượng Phụ Công Giáo la tinh Jerusalem hết sức cố gắng hiệp nhất nội bộ, hiệpnhất giữa các Giáo Hội và toàn dân. Chúng con là một Giáo Hội nhỏ bé, nhưng cũng là một Giáo Hội lắng nghe, tháp tùng và cộng tác theo khả năng khiêm hạ của mình, vào hành trình hoán cải, vì chúng ta luôn ở trong tình trạng hoán cải trường kỳ (Evan. gaudium 25).

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha Phanxicô mời tổng thống Mahmoud Abbas và Simon Perez
tham dự cuộc gặp gỡ cầu nguyện cho hòa bình tại Vaticăng


Đức Thánh Cha Phanxicô mời tổng thống Palestine Mahmoud Abbas và Israel Simon Perez tham dự một cuộc gặp gỡ cầu nguyện cho hòa bình với ngài tại Vaticăng. Ngài khích lệ hai chính quyền can đảm cương quyết gia tăng các nỗ lực để đem lại hòa bình cho hai dân tộc trong hai quốc gia độc lập, cùng chung sống trong tự do, an ninh, hòa bình, trong tình huynh đệ và tôn trọng các quyền của nhau, cũng như trở thành mô thức sống chung hòa bình cho các vùng bị khủng hoảng trên toàn thế giới.

Đức Thánh Cha đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong thánh lễ cử hành tại quảng trường Vương cung thánh đường Giáng Sinh ở Bếtlêhem sáng Chúa Nhật 25-5-2014.

Chúa Nhật 25-5-2014 Đức Thánh Cha đã viếng thăm vùng đất của người Palestine và đã có năm sinh hoạt chính: gặp gỡ giới lãnh đạo Palestine, chủ sự thánh lễ cho tín hữu tại quảng trường trước Vương cung thánh đường Giáng Sinh ở Bếtlehem và chào thăm các trẻ em tỵ nạn. Tiếp đến Đức Thánh Cha đến Tel Aviv và vào ban chiều ngài chủ sự buổi cử hành đại kết trong Vương cung thánh đường Thánh Mộ. Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của Đức Thánh Cha.

Lúc 7 giờ rưỡi sáng Chúa Nhật Đức Thánh Cha đã rời Tòa sứ thần Tòa Thánh để đến phi trường quốc tế Amman lấy trực thăng đi Giêrusalem. Lễ nghi tiễn biệt đã diễn ra tại phi trường Hoàng hậu Alia. Vua Giordania đã đón Đức Thánh Cha tại cửa vào phi trường. Hai vị đã trao đổi với nhau trước khi có lễ nghi từ biệt theo cung cách quốc khách.

Lúc 8 giờ ba chiếc trực thăng ”Superpuma” đã cất cánh chở Đức Thánh Cha và đoàn tùy tùng đến Bếtlêhem cách đó 75 cây số. Tiếp đón Đức Thánh Cha tại bãi đậu trực thăng ở Bếtlehem có Đức Tổng Giám Mục Giuseppe Lazzarotto, Sứ thần Tòa Thánh cạnh Israel kiêm Khâm sứ Tòa Thánh tại Giêrusalem và Palestine, Đức Cha Fouad Twal Thượng phụ Latinh Giêrusalem, Đức Cha Yasser Ayyach, Tổng Giám Mục Hy lạp Melkít Petra và Filadelphia, Đức Cha Sleiman, Tổng Giám Mục Baghdad kiêm Giám quản tông tòa Petra và Filadelfia, Đức Cha Maroun Laham Giám quản Giordania, cha Pierbattista Pizzaballa Bề trên dòng Phanxicô quản thủ Thánh Địa và Rabbi Abraham Skorka, Viện trưởng trường Rabbi châu Mỹ Latinh và hai Đức Ông cố vấn và thư ký Tòa Sứ Thần.

Đức Thánh Cha và đoàn tùy tùng đã đi xe về dinh tổng thống Palestine ở Bếtlehem cách đó 2 cây số rưỡi. Bếtlehem ”Beit Lekhem” trong tiếng do thái có nghĩa là ”Nhà của bánh”, là thành phố có 25.000 dân cư, nằm ở độ cao 765 mét trên mặt biển. Dân chúng sống về nghề nông, chăn nuôi và thủ công nghệ chế tượng ảnh và vật dụng bằng gỗ ô liu và xà cừ. Thánh Kinh gọi nó là Bếtlehem vùng Giuđea và là quê sinh của vua Đavít. Bếtlehem nổi tiếng với biến cố Chúa Giêsu Kitô giáng sinh, và từ thời xa xưa đã là nơi thu hút tín hữu hành hương toàn thế giới.

Năm 135 hoàng đế Adriano xây đền thờ kính thần Adone nhằm xóa bỏ ảnh hưởng của Kitô giáo. Nhưng năm 330 hoàng đế Costantino cho xây vương cung thánh đường trên hang đá giáng sinh. Năm 384 thánh Girôlamô đến sống tại đây và dịch Thánh Kinh Do thái ra tiếng Latinh. Đó là bản văn Vulgata. Sau khi Hồi giáo đánh chiếm Thánh Địa năm 638 toàn vùng nằm dưới ảnh hưởng chính trị của Califfo Omar. Năm 1099 khi nghe tin Đạo binh thánh giá tới gần người hồi tàn phá thành phố. Năm sau đó vua Baldovino được phong làm vua Giêrusalem. Nhưng năm 1187 Hồi giáo lại tái chiếm Bếtlehem. Thành phố suy tàn dần và năm 1600 chỉ còn là một làng nhỏ. Vào thế kỷ XIX thành phố hồi sinh và có da số dân theo Kitô giáo.

Từ năm 1918 Bếtlehem nằm dưới sự đô hộ của Anh quốc và năm 1948 thuộc vương quốc Hashemít của Giordania. Năm 1967 Bếtlehem, mạn đông Giêrusalem và vùng Cisgiordania bị Israel chiếm đóng. Từ năm 1995 nó thuộc vùng đất của người Palestine. Ông Yasser Arafat tổng thống Palesitine đã xây dinh tổng thống tại đây.

Tín hữu và dân chúng đã đem theo cờ Tòa Thánh và cờ Palestine cũng như bong bóng và ca hát chào mừng Đức Thánh Cha trong bầu khí lễ hội rất tươi vui. Trên cửa sổ các dinh thự chung quanh quảng trường Vương cung thánh đường Máng Cỏ treo nhiều hình vẽ cảnh Giáng Sinh, Đức Mẹ, Chúa Hài Đồng và các mục đồng của các họa sĩ nổi tiếng thế giới. Cũng có hình Đức Thánh Cha gặp gỡ tổng thống Mahmopud Abbas tại Vaticăn, treo tại nhiều nơi trong thành phố.

Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas đã tiếp đón Đức Thánh Cha trước dinh theo nghi lễ quốc khách. Rồi hai vị lên văn phòng ở lầu một hội kiến với nhau. Có một vài đại diện của cộng đoàn kitô Palestine đến từ dải Gazar trao vài sứ điệp cho Đức Thánh Cha. Tiếp đến Đức Thánh Cha đã gặp hàng lãnh đạo Palestine và tổng thống Abbas đã đọc diễn văn chào mừng ngài.

Đáp lời tổng thống Mahmoud Abbas Đức Thánh Cha đã cám ơn Chúa cho ngài đến viếng thăm nơi Chúa Giêsu, Hoàng Tử Hòa Bình đã giáng sinh và cám ơn tổng thống và nhân dân Palestine vì sự tiếp đón nồng hậu dành cho ngài. Từ nhiều thập niên qua vùng Trung Đông đã sống các hậu qủa thê thảm của cuộc xung đột kéo dài đã gây ra biết bao nhiêu thương tích cần phải chữa lành và cả khi bạo lực không bùng cháy, thì tình hình bất ổn và sự không hiểu biết giữa các bên cũng tạo ra sử bất ổn, các quyền bị khước từ, sự cô lập và di tản của nhiều cộng đoàn, các chia rẽ, thiếu thốn và khổ đau đủ loại. Đức Thánh Cha bầy tỏ sự gần gũi của ngài đối với những ai phải đau khổ vì các hậu qủa của xung khắc ấy và ngài đã ra lời kêu gọi như sau:

Từ cùng thẳm con tim tôi muốn nói rằng: đã đến giờ chấm dứt tình trạng này ngày càng trở nên không thể chấp nhận được, và điều này vì thiện ích của tất cả mọi người. Vì thế cần gia tăng các cố gắng và sáng kiến nhằm tạo dựng ra các điều kiện của một nền hòa bình ổn định, dựa trên công lý, việc thừa nhân các quyền của từng người và trên sự an ninh của nhau. Đã đến lúc tất cả mọi người hãy có can đảm quảng đại và sáng kiến phục vụ công ích, có can đảm hòa bình, dựa trên việc tất cả mọi người thừa nhận quyền hai quốc gia hiện hữu và được hưởng hòa bình và an ninh trong các biên giới được quốc tế thừa nhận.

Tôi nồng nhiệt cầu chúc rằng vì mục đích này mọi phía tránh các sáng kiến và các cử chỉ chống lại ý muốn tuyên bố đạt đến một thỏa hiệp đích thật và không mệt mỏi theo đuổi hòa bình với sự quyết tâm và trung thực. Hòa bình đem theo nó nhiều thiện ích cho các dân tộc của vùng này và cho toàn thế giới. Vì thế cần phải nhất quyết bước tới hòa bình, cả khi mỗi người phải từ bỏ vài điều đi nữa.

Tôi cầu chúc cho dân tộc Palestine và Israel cũng như các giới lãnh đạo liên hệ dấn thân trên con đường xuất hành hạnh phủc này tiến về hòa bình với lòng can đảm và cương quyết cần thiết cho mọi cuộc xuất hành. Hòa bình trong an ninh và tin tưởng lẫn nhau sẽ trở thành khung cảnh quy chiếu ổn định giúp đương đầu và giải quyết các vấn đề khác và như thế cống hiến một cơ hội phát triển quân bình, để trở thành mô thức cho các vùng khủng hoảng khác.

Đức Thánh Cha cũng nhắc tới sinh hoạt của cộng đoàn kitô cống hiến phần đóng góp ý nghĩa cho công ích của xã hội và chia sẻ các vui buồn khổ đau của toàn dân. Các kitô hữu muốn tiếp tục nắm giữ vai trò của mình như công dân có đầy đủ guyền lợi cùng với các công dân khác được coi như anh chị em của nhau.

Đức Thánh Cha ca ngợi tổng thống Abbas như là người của hòa bình và tạo dựng hòa bình. Cuộc gặp gỡ mới đây tại Vaticăng và sự hiện diện của ngài tại Palestine minh chứng cho các tương quan tốt đẹp giữa Tòa Thánh và Nước Palestine, mà ngài cầu mong gia tăng cho thiện ích của tất cả mọi người. Đức Thánh Cha đánh giá cao dấn thân chuẩn bị một Thỏa hiệp giữa các Phe liên quan tới các khía cạnh khác nhau của cuộc sống của Cộng đoàn công giáo của quốc gia, với sự chú ý đặc biệt tới tự do tôn giáo. Thật thế, việc tôn trọng quyền nền tảng này của con người, một trong những điều kiện không thể khước từ được của hòa bình, tình huynh đệ, và hòa hợp. Nó nói với thế giới rằng phải và có thể tìm ra một thỏa hiệp tốt đẹp giữa các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau. Nó làm chứng rằng chúng ta có chung với nhau biết bao điều và quan trọng có thể nhận ra một con đường chung sống thanh thản, trật tự và hòa bình, trong việc tiếp nhận các khác biệt và trong niềm vui là anh chị em với nhau vì là con cái của một Thiên Chúa duy nhất. Thưa tổng thống và các bạn tụ tập nhau tại Bếtlêhem này xin Thiên Chúa toàn năng chúc lành, che chở và ban cho qúy vị sự khôn ngoan và sức mạnh cần thiết để can đảm tiếp tục con đường hòa bình làm sao để gươm giáo trở thành lưỡi cầy và miền đất này có thể tái nở hoa trong thịnh vượng và hoà hợp.

Sau cuộc gặp gỡ tổng thống và giới chức chính quyền Palestine, lúc 10 giờ rưỡi Đức Thánh Cha đã đi xe díp trắng đến quảng trường trước vương cung thánh đường Giáng Sinh, cách đó 2 cây số rưỡi, để cử hành thánh lễ cho tín hữu, có sự tham dự của tổng thống Mahmoud Abbas và các giới chức chính quyền và đông đảo tín hữu, đến từ Galilea và Gaza, cũng như ba trăm công nhân Á châu làm việc tại Israel.

Trên đường đến Bếtlêhem Đức Thánh Cha đã dừng lại chỗ có bức tường cao 10 mét ngăn cách biên giới của Israel với vùng đất Palestine để cầu nguyện, trước khi tiếp tục tiến vào Bếtlêhem. Bức tường này đã bắt đầu được chính quyền Israel khởi công xây cất ngày 14 tháng 4 năm 2002 trong thời kỳ ”antifada” II giữa các năm 2000 tới 2005, nhằm ngăn chặn các vụ khủng bố phá hoại bằng hom người của người Palestine. Bức Tường được gọi là ”bức tường ô nhục” này cao 8-9 thước, dài 450 cây số trên tổng số 708 cây số dự trù, thường xây lấn trên đất của người Palestine, chia cắt đất đai, ruộng vườn của người Palestine và tạo ra biết bao nhiều bất công, khó nhọc vất vả, mất thời giờ cho người Palestine, mỗi khi phải di chuyển, kể cả các trẻ em khi đi học phải đi vòng xa qua các trạm kiểm soát của lính do thái gác biên giới.

Bà Vera Baboun thị trường thành phố đã chào đón Đức Thánh Cha.

Thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Latinh và A rập. Các bài sách thánh đã được tuyên đọc bằng tiếng A rập và thánh ca là thánh ca Giáng Sinh quốc tế nhưng bằng tiếng A Rập.

Giảng trong Thánh lễ Đức Thánh Cha nói: ”Đây là dấu chỉ: các ngươi sẽ tìm thấy một trẻ thơ cuốn tã nằm trong máng có” (Lc 2,12). Trẻ thơ Giêsu sinh ra tại Bếlehem là dấu chỉ Thiên Chúa ban cho người chờ đợi ơn cứu rỗi và luôn mãi là dấu chỉ sự hiền dịu của Thiên chúa và sự hiện diện của Ngài trong thế giới. Từ hình ảnh của Chúa Hài Nhi Đức Thánh Cha nghĩ tới các trẻ em trên toàn thế giới và nói:

Cả ngày nay nữa các trẻ em cũng là một dấu chỉ, dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ của sự sống, nhưng cũng là dấu chỉ ”bắt mạch” giúp hiểu sức khỏe của một gia đình, một xã hội, sức khỏe của toàn thế giới. Khi các trẻ em được tiếp nhận, yêu thương, giữ gìn và che chở, thì gia đình lành mạnh, xã hội tốt đẹp hơn, thế giới nhân bản hơn. Chúng ta hãy nghĩ tới công trình của Học viện Effetà Phaolo VI đối với các trẻ em câm điếc: đó là một dấu chỉ cụ thể lòng lành của Thiên Chúa. Ngày hôm nay Thiên Chúa cũng lập lại với chúng ta các người nam nữ của thế kỷ XXI: ”Đây là dấu chỉ, các ngươi sẽ tìm thấy một trẻ thơ…”. Trẻ thơ Bếtlêhem giòn mỏng như tất cả các trẻ sơ sinh. Không biết nói tuy Ngôi Lời đã nhập thể, đã đến để thay đổi trái tim và sự sống con người. Trẻ Thơ đó cũng như mọi trẻ thơ, yếu đuối và cần được trợ giúp và che chở. Cả ngày nay nữa các trẻ em cần được tiếp nhận và bảo vệ từ khi còn ở trong lòng mẹ.

Rất tiếc trong thế giới mgày nay là thế giới đã phát triển các kỹ thuật tinh vi nhất, vẫn còn có biết bao nhiêu trẻ em sống trong các điều kiện vô nhân, ngoài lề xã hội, trong các vùng ngoại ô các thành phố lớn hay trong các vùng quê. Biết bao nhiêu trẻ em ngày nay còn bị khai thác đối xử tàn tệ, bị làm nô lệ, là đối tượng của bạo lực và các vụ buôn bán bất hợp pháp. Ngày nay có quá nhiều trẻ em tỵ nạn, di cư đôi khi bị chết chìm trên biển, đặc biệt trong biển vùng Địa Trung Hải. Hôm nay chúng ta xấu hổ vì tất cả những điều đó trước mặt Thiên Chúa, trước Thiên Chùa trở thành Hài Nhi.

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha đã đưa ra một loạt các câu hỏi: chúng ta là ai trước Hài Nhi Giêsu? Chúng ta là ai trước các trẻ em ngày nay? Chúng ta có giống Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse tiếp đón Chúa Giêsu và lo lắng cho Người với tình nẫu tự và phụ tử hay không? Hay chúng ta giống như vua Hêrốt muốn loại trừ Ngài? Chúng ta có giống các mục đồng mau mắn qùy xuống thờ lạy Người vá dâng cho Người các món qùa khiêm tốn hay chúng ta thờ ơ? Có lẽ chúng ta hùng biện và duy đạo đức, là những người khai thác các hình ảnh của trẻ em nghèo nhằm sinh lời? Chúng ta có khả năng ở gần chúng và ”Mất thời giờ” với chúng không? Chúng ta có biết lắng nghe chúng, gìn giữ chúng cầu nguyện cho chúng và với chúng không? Hay chúng ta bỏ bê chúng để lo lắng cho các lợi lộc của chúng ta?

”Đây là dầu chỉ: các ngươi sẽ tìm thấy một trẻ thơ…”. Có lẽ trẻ thơ ấy khóc. Nó khóc vì đói, vì lạnh, vì muốn được bế bồng trên tay. Đức Thánh Cha áp dụng cho các trẻ em ngày nay và nói:

Cả ngày nay nữa các trẻ em khóc, khóc rất nhiều và tiếng khóc của các em gọi mời chúng ta. Trong thế giới này mỗi ngày vứt bỏ hàng tấn thực phẩm và thuốc men, có các trẻ em khóc vô ích vì đói vì bệnh có thể chữa được một cách đễ dàng. Trong một thời đại tuyên bố bảo vệ các trẻ em vị thành niên, người ta buôn bán vũ khí rốt cuộc rơi vào tay các trẻ em chiến binh; người ta buôn bán các sản phẩm do các trẻ em nhân công nô lệ làm. Tiếng khóc của các em bị bóp nghẹt: các em phải chiến đấu, phải làm việc, các em không thể khóc! Nhưng mẹ của các em, những bà Rachel ngày nay khóc: họ khóc các con họ và không muốn được an ủi (x. Mt 2,18).

”Đây là dầu chỉ”. Hài Nhi Giêsu đã sinh ra tai Bếtlêhem, mọi trẻ em sinh ra và lớn lên tại mọi phần của thế giới là dấu chỉ bắt mạch cho phép kiểm thực tình trạng sức khỏe của gia đình, cộng đoàn và quốc gia của chúng ta. Từ việc bắt mạch thẳng thắn và liêm chính đó có thể nảy sinh ra một kiểu sống mới, trong đó các tương quan không còn là xung khắc đàn áp, duy tiêu thụ nữa, mà là các tương quan của tình huynh đệ, tha thứ, hòa giải, chia sẻ và yêu thương.

Ôi lậy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu là Đấng đã tiếp đón xin đậy chúng con tiếp đón, là Đấng đã thờ lậy xin dạy chúng con thờ lậy, là Đấng đã đi theo xin dạy chúng con đi theo. Amen.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng A rập, Ý, Anh, Tagalog. Mấy chục linh mục đã giúp Đức Thánh Cha cho tín hữu rước Mình Thánh Chúa

Trước khi Đức Thánh Cha đọc lời nguyện kết lễ Đức Tổng Giám Mục Fouad Twal, Thượng Phụ latinh Giêrusalem đã đại diện mọi người cám ơn Đức Thánh Cha và nói: Chúng con mong ước chuyến viếng thăm này của Đức Thánh Cha làm sống dậy trong con tim của mọi người sứ điệp Giáng Sinh, hòa bình và hơi ấm của Hang Đá Bếtlêhem. Chúng con cầu mong rằng chuyến hành hương của Đức Thánh Cha giúp mọi người sống sự cao cả của sự khiêm nhường của Bếtlêhem, thừa nhận sự vô ích của xấc xược, vẻ đẹp của tuổi thơ và sự vô tội. Có biết bao trẻ thơ bị các người lớn lãnh đạo thế giới này bắt buộc sống lang thang, thường bị bỏ rơi: trẻ em không nhà cửa, không cha mẹ chạy trên các con dường bụi bặm của các trại tỵ nạn, vì không còn nhà ở và nơi nương tựa. Có biết bao trẻ em phải nghe lại những lời ”không còn chỗ trong quán trọ” đã được nói với Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse xưa kia. Không có chỗ cho chúng cả trong các chính sách gia đình, trong luật lệ và trong các cuộc đàm phán cho một nền hòa bình không tìm ra đường đến với chúng con, một nền hòa bình không chọc thủng được các bức tường sợ hãi không tin tưởng bao quanh thành phố này. Các người trẻ của chúng con đã theo gót Chúa Giêsu, sống kinh nghiệm di cư, đói khát, lạnh lẽo và thường khi trông thấy nhà cửa của chúng bị phá hủy.

Cùng với Đức Thánh Cha chúng con xin Hài Nhi Giêsu nới rộng hang đá của Người để tiếp đón biềt bao nhiêu trẻ em nạn nhân của bạo lực vô nhân và bất công. Làm sao không nhớ cầu nguyện cho biết bao nhiêu tù nhân chen chúc trong các nhà tù. Đói một miếng bánh, nhưng đói công lý và hòa bình hơn, đói một mái nhà tiếp đón họ. Các Hêrốt thời này chưa hết lo sợ hòa bình hơn chiến tranh, sợ hãi các gia đình lành mạnh và sẵn sàng giết người và tiếp tục giết người… Là con cháu của các mục đồng xưa kia tiếp nhận lời mời của các thiên thần, chúng con cùng với Đức Thánh Cha đến Bếtlêhem để thờ lậy Hài Nhi và chúc mừng cha mẹ Người. Nhân danh các Giám Mục công giáo, nhân dân Palestin và biết bao nhiêu khách hành hương đến Bếtlêhem như nhà của họ, chúng con cám ơn sự hiện diệơn của Đức Thánh Cha với chúng con hôm nay cùng với tất cả các trẻ em lành mạnh và tàn tật của nhiều trung tâm ở Bếtlêhem chúng con cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và gắn bó vời Đức Thánh Cha.

Cộng đoàn đã cùng Đức Thánh Cha hát Kinh Lậy Nữ Vương Thiên đàng. Trước khi ban phép lành cuối lễ Đức Thánh Cha đã đưa ra một sáng kiến bất ngờ chưa từng có ngài nói: “Ở nơi Hoàng Tử Hòa Bình đã sinh ra này, tôi ước mong mời tổng thống Mahmoud Abbas và tổng thống Simon Perez cùng tôi dâng một lời cầu nguyện mạnh mẽ khẩn nài Thiên Chúa ban cho ơn hóa bình. Tôi cống hiến nhà tôi ở Vaticăng để tiếp đón cuộc gặp gỡ cầu nguyện này”. Mọi người đều ước mong hòa bình và biết bao nhiêu người xây dựng nó mỗi ngày với các cử chỉ bé nhỏ. Nhiều người đau khổ và kiên nhẫn chịu đựng sự vất vả của biết bao nhiêu nỗ lực để xây dựng hòa bình. Và tất cả đặc biệt những người được đặt để phục vụ các dân tộc của nình – chúng ta có bổn phận trở thành dụng cụ của hòa bình, trước hết bằng lời cầu nguyện. Xây dựng hòa bình khó, nhưng sống không có hòa bình là một đau đớn. Tất cả mọi người nam nữ của vùng Đất này và toàn thế giới xin chúng ta đem tới trước Thiên Chúa khát vọng hòa bình nồng cháy của họ”.

Mọi người đã vỗ tay tán đồng sáng kiến của Đức Thánh Cha.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã phó thác cho cánh tay chở che hiền mẫu của Mẹ Maria vùng đất này và tất cả những người sống trong đó, để họ có thể sống trong công lý, hòa bình và tình huynh đệ. Đức Thánh Cha xin Mẹ canh thức trên các gia đình, người trẻ và người già, trên những người đã đánh mất đức tin niềm hy vọng, an ủi người đau yếu, tù đầy và tất cả những ai đau khổ, nâng đỡ các chủ chăn để các vị là ”ánh sáng và muối đất” trong vùng đất được chúc phúc này, nâng đỡ các công trình giáo dục, đặc biệt đại học Bếtlêhem. Khi chiêm ngưỡng thánh Gia tại Bếtlêhem này tôi nghĩ tới Nagiarét nơi tôi hy vọng sẽ đến thăm vào một dịp khác, nếu Chúa muốn. Chúng ta hãy phó thác cho Đức Thánh Trinh Nữ số phận của nhân loại, để mở ra trong thế giới các chân trời mới và hứa hẹn của tình huynh đệ, liên đới và hòa bình.

Sau cùng Đức Thánh Cha ban phép lành cuối lễ cho tín hữu.

Từ giã mọi người Đức Thánh Cha đã đến nhà khách Casa Nova của các cha Dòng Phanxicô Quản thủ Thánh Địa để dùng bữa trưa với 5 gia đình người tỵ nạn và nghỉ ngơi chốc lát trước khi viếng thăm Vương cung thánh đường và Hang Đá Giáng Sinh. Nhà dòng bên cạnh Casa Nova hiện có 37 tu sĩ sinh sống. Vương cung thánh đường dài 54 mét rộng 36 mét gồm 5 gian dọc. Hai trong ba cửa vào bị xây kín cửa thứ ba thấp để ngăn chặn binh sĩ đi ngựa vào trong nhà thờ. Năm 326 hoàng đế Costantino cho xây một vương cung thánh đường bao trùm lên hang đá Giáng sinh. Năm 529 nhà thờ bị hư hỏng vì hỏa hoạn và vì cuộc nổi loạn của người Samaria và được tu sửa năm 540. Năm 614 quân của Cosrone II xâm chiếm vùng này nhưng không tàn phá nhà thờ vì có hình của ba vua mang sắc phục Ba Tư. Từ thời đạo binh Thánh Giá nhà thờ được trang hoàng với các bức khảm đá mầu và hình vẽ theo kiểu bisantin. Hang đá Giáng Sinh được lát đá cẩm thạch.

Năm 1187 Saladino chiếm Giêrsusalem nhưng không tàn phá nơi thánh. Năm 1347 các cha Phanxicô được đế quốc Ottoman giao việc trông coi vương cung thánh đường và sở hữu hang đá Giáng Sinh. Sang thế kỷ XVI là thời gian tranh chấp giữa các tu sĩ Phanxicô và các tu sĩ chính thống hy lạp và tùy theo các người bảo trợ. Sau khi người Venezia bị thua và trục xuất khỏi đảo creta năm 1669, phía chính thống được phép trông coi Hang đá và vương cung thánh đường, trong khi năm 1690 các tu sĩ Phanxicô được trông coi Hang đá Giáng Sinh. Bên cạnh là vương cung thánh đường thành nữ Catarina và là giáo xứ Latinh do các cha dòng Phanxicô xây năm 1882 thay thế một nhà thờ thời Trung cổ.

Lối xuống hang đá Giáng Sinh nằm bên phải vương cung thánh đường. Lối lên dẫn vào trong nhà thờ thánh nữ Catarina bên trái. Hang đá Giáng Sinh dài 12 mét 3 rộng 3 mét rưỡi, nơi có bàn thờ Giáng Sinh bên dưới có ngôi sao bạc ghi dấu nơi Chúa Giêsu sinh ra với hàng chữ Latinh: ”Hic de Virgine Maria Jesus Christus natus est” ”Đây là nơi Đức Giêsu Kitô được sinh ra bởi Trinh Nữ Maria”. Hang đá có 53 chiếc đèn trong đó có 9 cái thuộc Giáo Hội Latinh. Đàng sau bên phải là máng cỏ nơi Chúa Giêsu nằm trong nôi.

Sau khi viếng thăm và cầu nguyện tại Hang Đá, Đức Thánh Cha đã trở lại nhà Casa Nova để chụp hình lưu niệm với các tu sĩ Phanxicô. Tiếp đến ngài đi xe đến Trung tâm Phoenix cách đố 5 cây số để gặp gỡ các trẻ em thuộc các trại tỵ nạn. Đây là trung tâm phục hồi cho người tỵ nạn của trại Dheisheh đã được Thánh Gioan Phaolô II tài trợ xây cất và viếng thăm năm 2000, nhân kỷ niệm 25 năm ngài làm Giáo Hoàng. Trong đại thính đường của trung tâm có mấy trăm trẻ em đến từ các trại Sheisheh, Aida và Beit Jibrin. Một bé trai và một bé gái tặng Đức Thánh Cha vài hình vẽ, các thư và đồ thủ công do các em làm. Các em cầm nhiều mảnh giấy có viết các hàng chữ: ”Chúng con muốn tự do thờ phượng”, ”Người hồi và người Kitô sống dưới sự chiếm đóng” vv.. Một bé trai đại diện các em chào mừng Đức Thánh Cha và nói lên ước mong của các em được sống trong hòa bình tự do an bình và tình huynh đệ. Em nói:” Thưa Đức Thánh Cha chúng con đã mở mắt chào đời và trông thấy sự chiếm đóng. Chúng con muốn chết trong tự do”.

Các em cũng hát mừng Đức Thánh Cha và bầy tỏ các ước vọng đó. Tiếp đến hai em bé mặc sắc phục A rập tặng qùa cho Đức Thánh Cha một bức tranh và một cánh tay bị cột bởi dây xích. Đức Thánh Cha đã chào em bé dại diện và ngài cám ơn các em đã hát rất hay và tặng ngài kỷ niệm rất ý nghĩa.

Ngỏ lời với các em Đức Thánh Cha nói ngài hiểu các ước vọng sâu xa của các em. Nhưng ngài chỉ xin nói với các em một diều: không được dùng bạo lực để đáp trả lại bạo lực. Trái lại cần dùng sự thiện, hòa bình và việc làm kiên trì để trả lời bạo lực. Tiếp đến Đức Thánh đã ban phép lành cho các em.

Lúc 15 giờ 40 Đức Thánh Cha đã đi xe đến bãi đậu trực thăng. Tại đây đã diễn ra lễ nghi từ biệt với sự hiện diện của tổng thống Mahmoud Abbas và các giới chức chính quyền Palestine. Trực thăng chở Đức Thánh Cha tởi Tel Aviv để bắt đầu chặng thứ ba của chuyến viếng thăm trên đất Israel.

Linh Tiến Khải

Nguồn: RV

Chia sẻ Bài này:
[1] [2] [3]