- Legio Mariae – Đạo Binh Đức Mẹ - https://daobinh.com -

Chuỗi Mân Côi Trong Đời Sống Chiêm Niệm

Phần I: Chuỗi hạt Mân Côi một kho tàng thiêng liêng vô tận 

Chuỗi hạt Mân Côi và đời sống chiêm niệm, mới nghe qua, ta thấy như có gì tương phản: một bên ta nghĩ đến những cụ già, những em bé (có thể là mù chữ), tay lần hạt, miệng rầm rì lập đi lập lại ba bài kinh đơn giản nhất Lạy cha, Kính Mừng và Sáng Danh. Còn một bên là hình ảnh các triết gia, thiền sư, thần nhiệm học cao siêu. Nghĩ như thế có lẽ ta đã lầm vì quên mất rằng, bắt đầu mỗi chục hạt Mân Côi chúng ta đều nhắc nhủ nhau: “Thứ nhất thì ngắm… thứ tư thì ngắm…”. Ngắm là gì? Thưa chính là chiêm niệm đó! Vả lại chuỗi hạt Mân Côi là kinh riêng của Đức Mẹ, mà Mẹ Maria là mẫu mực của đời sống chiêm niệm, như Luca đã chép: “Còn Maria thì Bà giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi gẫm lại trong lòng”. (Lc 1,19).

Vậy lần hạt Mân Côi trước hết là đến với Mẹ Maria, hợp lòng hợp ý với Ngài: ôn lại, ghi nhớ mãi trong lòng những gì chứa đựng trong 15 mầu nhiệm của chuỗi Mân Côi, mà ta gọi là các sự VUI-THƯƠNG-MỪNG: tức là Mầu Nhiệm Cứu Độ, từ khởi đầu với Mầu Nhiệm “NGÔI HAI MANG LẤY NHỤC THỂ” cho đến thành tựu viên mãn cuối cùng với Mầu Nhiệm “ĐỨC MARIA ĐƯỢC LÊN TRỜI VINH HIỂN”. Có thể xem chuỗi hạt Mân Côi như một cuốn Tin Mừng kết tinh, rút gọn thân thế và sự nghiệp Đấng Cứu Thế và Mẹ Người là Đấng “Đồng Công Cứu Chuộc”. (Sau đây chúng ta có thể thấy rằng: chuỗi hạt Mân Côi bao gồm cả lịch sử nhân loại và tiến trình của vũ trụ, và như thế có thể xem chuỗi hạt Mân Côi như một bộ Kinh Thánh thu gọn, khác nào như Ngôi Hai nhập thể thâu gọn toàn thể tạo vật dưới hình thức một bào thai bé nhỏ trong lòng băng tuyết của Đức trinh nữ Maria Vô nhiễm vậy). Chuỗi hạt Mân Côi kết tinh như thể để giúp ta nhìn ngắm, noi gương và suy gẫm đến mức gần như đồng hoá trở nên những Giêsu Kitô được sinh hạ cách thiêng liêng bởi Đức Mẹ Maria, tiếp diễn chính thân thể và sự nghiệp cứu độ trần gian mà Chúa Giêsu vẫn tiếp tục qua Nhiệm Thể Người là Hội Thánh. Trong Nhiệm thể ấy, mỗi người chúng ta dù ở đấng bậc nào đều là chi thể có một vị trí, một nhiệm vụ, một chức năng, một ơn thiên triệu độc nhất vô nhị không thể thay thế, dù chỉ là một bé gái chăn cừu 8 tuổi chưa biết chữ, chưa rước lễ vỡ lòng, chưa biết Giáo Hoàng là gì, như Giaxintha Marto ở Fatima.

Ngay bây giờ ta cần khẳng định rằng: lần hạt Mân Côi trước hết là đáp lại lời kêu gọi của Đức Mẹ, thoát ra khỏi cái vỏ sò hạn hẹp, duy kỷ vị kỷ của một tầm nhìn trần tục, để đi vào chính cái nhìn của Đức Mẹ là: hướng về Thiên Chúa. Ta đem chính bản thân và những gì thuộc về mình (gia đình thân bằng quyến thuộc, đồng bào, Hội Thánh, nhân loại và vũ trụ) đặt vào trái tim của Mẹ Maria như một lễ vật, để nhờ phép Chúa Thánh Thần chuyển hoá (khác nào bánh rượu trong Thánh lễ) trở nên Hy lễ tạ ơn đền tạ trong Đức Kitô dâng lên trước toà Thiên Chúa để trở thành nguồn ân sủng tràn xuống trần gian. Chỉ sau đó ta mới xin Chúa, nhờ lời cầu bầu của Mẹ Maria ban cho ta những ơn mà ta xét là cần thiết và hữu ích thực sự (cần xét kỹ những điều ta xin có thực sự hữu ích và cần thiết không? Cần thiết theo nghĩa Chúa dạy: “Chỉ có một điều cần mà thôi”! và hữu ích theo nghĩa tám mối phúc thật, chứ không phải cần thiết hữu ích theo nghĩa thế gian tội lỗi). Nội dung của ba kinh: Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh, chủ yếu là thờ lạy, chào mừng, tôn vinh, tán tạ, cho nên trong việc xin ơn, ta chỉ cầu xin một cách bỏ trống, hoàn toàn theo ý Thiên Chúa, ý Đức Mẹ chứ không rõ xin ơn gì cả (đúng như lời thánh Phaolô dạy: Ta không biết cầu nguyện thế nào cho đúng! Nhưng chính Thánh Thần đã cầu nguyện nơi ta!).

Trong tiểu sử cá nhân cũng như lịch sử Hội Thánh và nhân loại, Đức Mẹ Maria quả thực ra tay cứu giúp con cái của Ngài khỏi bước gian nan. Tại Rue du Bac, Lộ Đức, Fatima, Đức Mẹ đã làm nhiều phép lạ (mà một nhà bác học được giải thưởng Nobel về sinh học như Alexis Carel, đã xác nhận là có thực). Ngài thực xứng danh với các tước hiệu: “Có tài có phép”, “Hằng cứu giúp”, “Phù hộ các giáo hữu”, “Yên ủi kẻ âu lo”, “Cứu kẻ liệt kẻ khốn” mà chúng ta đã tôn vinh Mẹ. Nhưng điều cốt yếu khi ta đến với Đức Mẹ là dâng lên một lòng hiếu thảo, mến yêu, khen ngợi, thứ đến là chiêm ngưỡng mà noi gương để trở nên hình ảnh Mẹ, hình ảnh Chúa, rồi sau cùng mới xin ban ơn phúc. Do đó, khi gặp sự gian nan phần hồn cũng như phần xác, ta nên chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp với lòng trông cậy đơn sơ, khiêm nhường và phó thác, thế nhưng đừng bao giờ quên rằng: trước lúc được lên trời vinh hiển, Đức Mẹ Maria đã đứng lặng yên dưới chân Thánh giá, trái tim Vô Nhiễm đã bị lưỡi gươm vô hình đâm thâu, Mẹ ngước mắt nhìn Trái Tim cực thánh Con yêu dấu bị lưỡi đòng đâm thủng, máu và nước chảy ra, mà không hề một lời van xin Chúa Cha cứu con mình khỏi cơn tử nạn. Cũng nên nhớ: Đức Mẹ Maria không cứu các Thánh Anh Hài bị vua Hêrôđê giết, không cứu Stêphanô và Giacôbê khỏi cơn bách hại, không cứu hàng triệu tín hữu Kitô tử đạo, hàng ngàn thừa sai bị thuyền chìm đáy biển khi vượt sóng đi truyền giảng Tin Mừng.

Gần đây, Giaxintha và Phanxicô ở Fatima hai em được Đức Mẹ chọn đã chết yểu sau những cơn bệnh trầm trọng. Nhất là Giaxintha bị giải phẩu hai lần vô hiệu quả, sau cùng chết một mình trong một bệnh viện xa gia đình. Hơn nữa em đã trút hơi thở cuối cùng chính vào lúc người nữ y tá phải ra khỏi phòng chốc lát, vì có việc cần! Như vậy là để ta hiểu rõ ý nghĩa, mục đích, tác dụng của việc lần hạt Mân Côi (cũng như các hình thức khác nhằm mục đích tôn kính Đức Mẹ hoặc thờ phượng Thiên Chúa) là ở chỗ nào! Và cũng là để việc thờ phượng Thiên Chúa và tôn kính Đức Mẹ được thực hiện như lời Chúa phán với người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp: “Bây giờ đã đến lúc những kẻ thờ phượng Thiên Chúa phải thờ phượng trong tinh thần và chân lý”. Đành rằng Mẹ Maria có làm nhiều phép lạ để “cứu khổ cứu nạn”, nhưng mục đích chủ yếu của việc Đức Mẹ tỏ mình ra không phải là để cứu khổ cứu nạn. Bởi vì Đức Mẹ là Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đấng đã cứu chuộc thế gian bằng cuộc tử nạn của mình, và Đức Mẹ là người Đồng Công Cứu Chuộc với Đấng ấy. Hơn nữa chúng ta ai cũng biết: cứu chuộc thì bằng cây Thánh giá mà thôi.

Như thế, lần hạt Mân Côi chủ yếu là ngắm 15 sự, mà trung tâm là 5 sự THƯƠNG, để cho tư tưởng, tình cảm, ngôn ngữ hành vi và toàn bộ cuộc sống của ta thấm nhuần Tin Mừng để dần dần thân thể của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria với thân thể của ta trở nên một, đem lại cho ta một cặp mắt hoàn toàn đổi mới mà nhìn bản thân ta, nhìn mọi người, mọi việc, nhìn tất cả với chính cái nhìn của Thiên Chúa trong kế đồ sáng tạo và cứu độ của Ngài. Chuỗi hạt Mân Côi với 15 sự Vui-Thương-Mừng chính là mầu nhiệm tình yêu sáng tạo và cứu độ của Chúa diễn ra trong cặp mắt yêu thương thiêng liêng của tâm hồn. Mầu nhiệm ấy được “vén màn” lên trong một cái nhìn có thể nói được là “vĩnh cửu”, theo đó mọi sự được soi dõi, chiếu tỏ dưới ánh sáng đức tin: mọi sự được diễn ra đúng như kế đồ của Thiên Chúa là bao trùm, thâu họp tất cả trong Đức Kitô, con Bà Maria; Elisabeth, Zacaria, Anna, Simêon là đại diện cho Cựu Ước (trong bài Magnificat có nhắc đến tổ phụ Abraham), ba vua là đại diện cho các dân ngoại, bò lừa trong máng cỏ đại diện cho loài vật, trong hai thân thể của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria đã lên trời, là hai khối vật chất đã được đi vào vinh hiển.

Chuỗi hạt Mân Côi khác nào như chu kỳ phụng vụ toàn niên thâu gọn lại. Cuối cùng mỗi chục hạt đều kết thúc bằng lời chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi nên có thể nói được rằng mỗi chục hạt đều gồm tóm mọi sự: phát xuất từ Chúa Cha (Lạy Cha) xuyên qua Chúa Giêsu và Mẹ Maria (Kính Mừng) để chảy vào mầu nhiệm căn bản của tất cả là Thiên Chúa Ba Ngôi (Sáng Danh). Mỗi chục hạt là vĩnh cửu ngự xuống trần gian và để đưa trần gian vào vĩnh cửu. Và đó là cốt tuỷ của mầu nhiệm muôn đời mà Thiên Chúa “vén màn” lên để mời gọi chúng ta đón nhận đi vào; đi vào không chỉ để hưởng thụ mà thôi, nhưng còn để thông dự và cộng tác bằng chính cuộc đời hy sinh phục vụ trong lòng mến Chúa yêu người.

Một bé gái chăn cừu như Giaxintha chỉ với chuỗi hạt Mân Côi đã đi xa hơn, lên cao hơn, đào sâu hơn, hơn thế giới linh niệm của Platon, hơn cái vô vi của Lão Tử, cái vô ngã của Phật Giáo, cái thái cực của Khổng Giáo, cái tư duy tự tại của Aristote, cái tư thế của các nhà triết học Cổ Kim. Bởi vì, với kinh Sáng Danh, chúng ta đạt tới mầu nhiệm Ba Ngôi, điều mà không trí tuệ tự nhiên nào tới được. Quả vậy, nếu biết ngắm, thì bất cứ mầu nhiệm nào cũng có thể đưa ta vào đời sống thần hiệp cao thâm được cả. Ví dụ: tác phẩm thần nhiệm lừng danh của thánh nữ tiến sĩ Hội Thánh Têrêxa thành Avila “Lâu đài nội tâm”, cũng chỉ đưa tâm hồn vào phối hợp với Thiên Chúa ở tầng thứ bảy là tuyệt đỉnh. Điều ấy một tâm hồn khi lần hạt và ngắm sự VUI THỨ NHẤT có thể đạt được bằng cách đồng hoá và kết hợp với Mẹ Maria dâng lời “Xin vâng” mà đón nhận Ngôi Hai ngự xuống trong lòng mình một cách thiêng liêng, khác nào như một sự hàm thai mầu nhiệm vậy.

Chỉ thông dự thâm sâu vào SỰ VUI ấy cũng có thể để cho trái tim mình đập cùng một nhịp với trái tim cực sạch của Đức Mẹ. Một ví dụ khác: triết gia Bergson, vị thầy tư tưởng của cả một thế hệ trí thức đầu thế kỷ 20, luôn treo bức ảnh Đức Mẹ lên trời của danh hoạ Murillo trong phòng, vì đối với ông đó là tiêu biểu cuối cùng của sự tiến hoá sáng tạo vũ trụ vật chất này. Từ mầu nhiệm vui thứ nhất NGÔI LỜI BIẾN THÀNH NHỤC THỂ cho đến mầu nhiệm mừng cuối cùng, ĐỨC MẸ ĐƯỢC LÊN TRỜI VINH HIỂN, vấn đề hiểm hóc về tương quan giữa vật chất và tâm linh được giải quyết một cách thần diệu.

Đây không phải là một giáo trình hữu thể học, nhưng đề cập qua một vài vấn đề triết học, để ta ý thức được kho tàng vô tận về mọi mặt của 15 mầu nhiệm chứa đựng trong chuỗi hạt Mân Côi.

PHẦN II: ĐỂ NHỚ ĐẾN MẸ THẦY VÀ CÙNG NGÀI NHỚ ĐẾN THẦY 

Lần hạt Mân Côi mục đích chính là để ngắm mầu nhiệm cứu độ mà Thiên Chúa đã mạc khải cho ta qua 15 sự, ngắm với con mắt và trái tim của Mẹ Maria để dễ ghi nhớ mãi trong lòng như Ngài; ta không thể không liên tưởng tới một chữ nhớ nào khác ngoài chữ nhớ trong lời Chúa Giêsu khi Ngài lập phép Thánh Thể – Bí Tích Tình Yêu: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Trong suốt Thánh Kinh, ta cũng thấy các tác giả luôn nhắc nhủ dân Chúa nhớ đến các việc Thiên Chúa đã làm, nhất là trong lễ Vượt Qua ghi nhớ sự cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập; đi qua Biển Đỏ tiến vào Đất Hứa để được tự do thờ phượng Thiên Chúa.

Lễ VƯỢT QUA mà chính cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu mới là hiện thực vĩnh cửu. Sự vượt qua mà Hội Thánh cử hành mỗi năm vào lễ Phục Sinh, hàng tuần vào mỗi chúa nhật, cũng như trong thánh lễ hàng ngày: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Sự nhớ lại ấy cũng chính là điều ta làm dưới một dạng thức khác khi ta suy gẫm 15 mầu nhiệm của chuỗi Mân Côi, chỉ có khác là ở đây hình ảnh Đức Mẹ được tô đậm rõ nét hơn. Chu kỳ phụng vụ toàn niên (trong đó Thánh lễ tạ ơn là trung tâm) mà Hội Thánh Hiền Thê của Chúa Giêsu dâng lên trước toà Thiên Chúa, như được dàn trải, mở rộng bằng hai dòng phụ lưu là Kinh Nhật Tụng của các linh mục, tu sĩ và chuỗi hạt Mân Côi của giáo dân. Nếu xem cuộc sống trần gian này là cuộc xuất hành của dân Chúa qua muôn thế hệ đang vượt qua Biển Đỏ trần thế để đi vào Đất Hứa muôn đời, thì Thánh lễ chính là Manna hằng sống làm lương thực ăn đàng, còn Kinh Nhật Tụng và chuỗi hạt Mân Côi khác nào như hai ca đoàn, một do Chúa Thánh Thần làm nhạc trưởng, còn một do Đức Mẹ điều khiển. Vì tự bản chất các giờ Kinh Phụng Vụ cũng như chuỗi hạt Mân Côi chủ yếu nhắm chào mừng, chúc tụng, thờ lạy, ngợi khen và cảm tạ, lời kêu cầu chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, song song với 150 Thánh Vịnh là 150 kinh Kính Mừng, kính chào Bà có phúc lạ, ngay cả khi ngắm năm sự Thương cũng là lời chào mừng.

Hơn nữa, lời kinh của Đức Mẹ là bài “Magnificat” được Hội Thánh giao cho các linh mục và tu sĩ đọc lại hằng ngày trong giờ kinh chiều. Bài tạ ơn ấy của Đức Mẹ Maria chẳng khác nào nơi mà hai dòng phụ lưu ấy gặp nhau để cùng chảy vào trái tim Mẹ Maria để dâng lên trước toà Thiên Chúa. Hai dòng kinh phụ lưu ấy chẳng khác gì hai bè của ca đoàn phụ vào cho lời kinh cảm tạ chính thức là kinh Tiền Tụng trong Thánh lễ. Thánh lễ là dòng chính, các giờ Kinh Phụng Vụ và chuỗi hạt Mân Côi là hai dòng phụ kết hợp thành của lễ duy nhất hằng liên lỉ từng giây phút, từ mọi nơi trên mặt đất bay lên không ngớt trước toà Thiên Chúa “để ca tụng tôn vinh Danh Chúa và mưu ích cho chúng con cùng toàn thể Hội Thánh Người”.

Nhớ đến Thầy, nhớ đến Mẹ Thầy (cũng như nhớ đến những việc kỳ diệu Chúa đã làm, cả trong thời Cựu Ước cũng như trong thời Tân Ước, trong lịch sử Hội Thánh). Không phải chỉ là hoài niệm những việc quá khứ mà thôi! Song là luôn nghĩ đến một thực tại có chiều kích miên trường đang tiếp diễn hiện hành qua thừa tác vụ của Hội Thánh, trong đó mỗi tín hữu là một chi thể, một thành viên có chức năng, có nhiệm vụ tuỳ theo ơn gọi phải chu toàn để ý Cha thể hiện dưới đất (nơi chúng ta) cũng như ở trên trời (nơi Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các Thánh đã đi vào vinh hiển). Qua trung gian đời sống mỗi tín hữu cũng như qua sinh hoạt toàn diện của Hội Thánh, một mặt thực tại ấy có tác dụng biến cải đời sống mỗi tín hữu thành hình ảnh Chúa Giêsu và Đức Mẹ ngày một hơn, mặt khác một cách gián tiếp, thực tại ấy sẽ chi phối lên lịch sử nhân loại và sự tiến hoá của vũ trụ về chiều sâu và lâu dài như muối của thế gian, như men trong bột. Thực tại siêu nhiên ấy, với sức tác động sâu xa và bền bỉ của nó, do Chúa Thánh Thần, thực hiện lời Chúa hứa: “Thầy ở lại với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Sự hiện diện ấy đối với một số tâm hồn được ơn đoàn sủng, có thể biểu lộ một cách hiển hiện.

Đối với Đức Mẹ Maria cũng có một cái gì tương tự: thân thể của Đức Mẹ cũng đã đi vào vinh hiển, nghĩa là cũng đã ở vào một trạng thái vượt qua những giới hạn của không gian và thời gian, nên cũng có khả năng hiện diện ở mọi nơi và mọi lúc, và sự tác động của Đức Mẹ cũng có tầm mức phổ biến tương tự. Cũng như Chúa Giêsu, Đức Mẹ cũng có khả năng tỏ hiện sự hiện diện của mình cho những tâm hồn đã đạt mức sống thiêng liêng nào đó: hoặc là tỏ mình qua sự cảm nghiệm nội tâm, hoặc là tỏ mình qua sự cảm nhận giác quan như với Catherine Labouré, Bernadette, ba trẻ ở Fatima… thường thì một sự cảm nghiệm nội tâm tạo nên như một khí quyển thiêng liêng đùm bọc, che chở, tác động, trong đó bóng dáng nhiệm mầu của Đức Mẹ dường như luôn luôn có mặt. Chuỗi hạt Mân Côi cũng như các kinh tôn kính Đức Mẹ, là những phương tiện giúp ta sống tiếp cận với Đức Mẹ, để dần dần tiến tới trạng thái gần như mang lấy một đời sống thiêng liêng được Maria hoá (tương tự – tuy ở mức độ thấp hơn – như Kitô hoá theo lời Thánh Phaolô: “Không phải tôi sống nữa mà Đức Kitô sống trong tôi”), nơi nào có sự hiện diện của Đức Mẹ, thì có sự hiện diện của Con lòng Mẹ, và có sự tác động của Chúa Thánh Thần, y như trường hợp Đức Mẹ đến thăm Bà Elisabeth vậy.

Ta có thể tin chắc rằng: nơi nào có một tín hữu lần hạt Mân Côi với lòng tin cậy mến thì có sự hiện diện nào đó của Đức Maria với sự tác động của Ngài, tương tự như nơi nào có linh mục đọc lời truyền phép thì Chúa Giêsu ngự xuống, chỉ khác là Chúa Giêsu ngự xuống thực sự dưới dạng bí tích, còn Đức Mẹ thì ngự xuống một cách thiêng liêng. Do đó mỗi lúc ta lần hạt Mân Côi, ta gần như được sống lại cách đầy an ủi vô cùng đẹp đẽ khi Đức Mẹ tới thăm Bà Elisabeth: hai Bà Mẹ, hai Bào Thai, cả bốn đều chào mừng nhau, đều sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần mà hợp lòng cất tiếng ca tụng Thiên Chúa với chính lời của Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”. Lúc ấy ta nhớ đến Chúa, nhớ đến Đức Mẹ, và cái nhớ của chúng ta chẳng qua là đáp lại cái nhớ của Thiên Chúa: “Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời”. Trong muôn đời ấy, có đời (thời đại) của chúng ta, dù chúng ta ở thời đại nào cũng vậy. Sâu xa hơn nữa, cái nhớ của Đấng sáng tạo: “Từ thuở đời đời Chúa đã nhớ đến con, con là không mà Chúa đã sinh ra có”. Ôi phúc lạc biết chừng nào!

Cuối cùng, lần hạt Mân Côi cũng là một hình thức tuyên xưng, loan truyền mầu nhiệm cứu độ ở khắp nơi và mọi lúc. Mầu nhiệm cứu độ này xuất phát từ lòng thương xót muôn đời của Thiên Chúa tình yêu ban đến cho chúng ta qua Chúa Kitô và Mẹ Maria mà ta đón nhận và chào mừng qua phần đầu của kinh Kính Mừng. Đó là mầu nhiệm mà ta ôn lại, ta nhìn ngắm, ta thông dự, ta tiếp diễn qua 15 sự: VUI-THƯƠNG-MỪNG chứa đựng trong chuỗi hạt Mân Côi, như chính Chúa Giêsu, bào thai chứa đựng trong lòng băng tuyết vô nhiễm của Đức Mẹ, và đồng thời chúng ta cũng được thụ thai trong lòng Đức Maria một cách mầu nhiệm, thiêng liêng dưới sự bao phủ của Chúa Thánh Thần để ta được sinh ra trong đời sống đức tin ở trần gian và trong đời sống vinh hiển mai sau khi đến giờ lâm tử (quả vậy giờ lâm tử được Hội Thánh gọi cách lạc quan là sinh thì – giờ sinh). Chính vì thế xin Đức Mẹ cầu bầu cho ta khi nay và trong giờ lâm tử.

PHẦN III: KHI LẦN HẠT MÂN CÔI TA XIN ƠN GÌ CÙNG ĐỨC MẸ 

Thứ nhất thì ngắm… ta hãy xin cho được v.v… Ta đến cùng Đức Mẹ Maria, trước hết là để chào mừng Mẹ và Con lòng Mẹ, là hai Đấng đầy ơn phúc, sau nữa là để xin Đức Mẹ cầu cho ta và thế là đủ. Còn cầu xin gì thì ta hoàn toàn phó thác cho lòng thương yêu và sự khôn ngoan của Mẹ. Bởi vì ta thực sự cần gì, những gì hữu ích cho ta theo ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, thì Đức Mẹ rõ hơn ta nhiều. Đó là tinh thần của việc dâng mình phụng sự Đức Mẹ theo thánh Louis Maria de Monfort. Từ bỏ mọi ý riêng tư: hoàn toàn phó thác, hiến dâng mọi sự cho Đức Mẹ. Thật đơn giản, nhẹ nhàng và đầy đủ.

Tuy nhiên đó là đỉnh cao mà ta cố gắng vươn lên, còn trong bước đầu khiêm tốn ý thức sự yếu hèn của ta, ta còn phải tập đi từng bước một. Cho nên, cứ như mọi người có lòng tin ở Đức Mẹ, ta xin cùng Đức Mẹ tất cả những gì là tốt lành mà ta nghĩ là cần thiết cho mọi mặt cuộc sống của ta: từ miếng cơm manh áo cho đến các nhân đức và cuối cùng là sự rỗi linh hồn (xin Đức Mẹ cầu cho trong giờ lâm tử là vậy). Ta không kiêu căng tự phụ, ta cần sự nâng đỡ cứu giúp của Đức Mẹ về mọi mặt cũng như cần đến ơn sáng tạo nuôi dưỡng và cứu độ của Chúa (mặt trời, không khí, nước uống, mọi sự cần cho cuộc sống của ta đều vốn là bởi không mà Chúa đã tạo thành và ban không cho ta cả, và ngay từ gốc rễ, chính sự hiện hữu của ta cũng là do Chúa ban cho! Ta đừng quên chân lý căn bản này).

Charles Péguy, E.Mounier, hai nhà đại trí thức Công Giáo, khi có con đau nặng, cũng đi hành hương xin Đức Mẹ ban ơn cứu chữa. Gia đình thánh nữ Têrêxa Hài Đồng, trong cơn trọng bệnh của Têrêxa thời thơ ấu, cũng xin lễ tại nhà thờ Đức Bà Chiến Thắng để xin ơn lành bệnh, thoát khỏi tử vong.

Trong lịch sử Hội Thánh và nhân loại, cũng như trong lịch sử cá nhân Đức Mẹ đã làm phép lạ ban ơn cứu giúp đủ mọi mặt: kinh tế, sức khoẻ, tình cảm, luân lý, quân sự và có lẽ cả… chính ta trước mỗi chục hạt điều chính yếu là xin những ơn thiêng liêng: khiêm nhường, tinh thần yêu người, nghèo khó, nhẫn nhục, vâng lời, ăn năn tội nên, yêu mến sự trên trời (nghĩa là cũng nhằm xin cho được lòng từ bỏ, không quá dính bén những sự dưới đất), chết lành, phúc thiên đàng cho riêng ta cũng như cho hết thảy các linh hồn. Tối thiểu ta cần xét lại xem: miệng lưỡi ta thì xin như vậy đó, nhưng thâm tâm ta thực tình ước ao những gì? Ta có thể thực lòng ao ước những ơn thiêng liêng ấy không? Ta có thực sự thao thức băn khoăn đến sự cứu rỗi các linh hồn coi đó là ưu tư trọng đại nhất của lòng ta như em bé Giaxintha Marto ở Fatima không? Hay miệng ta xin một đàng mà lòng ta lại ao ước một nẻo?

Có lẽ đây là điều ta cần ăn năn trở lại không ngừng, chẳng riêng gì kẻ cướp của giết người, tà dâm nặng nề mới phải trở lại, mà đúng ra tất cả mọi người chúng ta đều cần phải trở lại, phải xét lại xem những ao ước của lòng ta có khác gì những ao ước của những kẻ không có đức tin chăng? Trong Tin Mừng Chúa có nói “Nếu thế thì các ngươi có làm gì lạ? Mà người ngoại cũng không làm thế sao?”. Vâng, yêu kẻ thương mình, ghét kẻ hại mình, muốn được người ta khen, muốn được người ta trả ơn v.v… có gì là xấu đâu! Nhưng như vậy thì khác với kẻ không biết Chúa ở chỗ nào? Còn gì là muối, là men, là ánh sáng??? Trong kinh “Thú nhận” ta thường quên cái khoản những điều thiếu sót. Cần xét kỹ hơn một tí, nhất là dưới sự soi sáng toả ra từ lời của Chúa: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời” (Mt 5,48). Chúa không ép buộc nhưng mời gọi. Lời mời gọi ấy Chúa gởi đến tất cả mọi người thuộc mọi đấng bậc chứ không phân biệt ai (đấng bậc trong Hội Thánh chỉ là sự phân công trong Nhiệm Thể chứ không phải là chuyên viên độc quyền nên thánh). Giaxintha ở Fatima chẳng là gì cả, chỉ là một phụ nữ tiểu tư sản, lo tề gia nội trợ đảm đang, làm ăn lương thiện để có của hồi môn cho năm cô con gái (đi tu hay lập gia đình cũng vậy, đều phải có của hồi môn) thế thôi! Ngay từ đầu, thánh Phaolô đã gọi anh chị em tín hữu là thánh. Suy cho cùng, như thế là phải: là con cái Thiên Chúa, con cái Đức Mẹ, anh em với Chúa Giêsu, đền thờ Chúa Thánh Thần mà không gọi là thánh thì gọi là gì?

Đơn giản hơn, trước mỗi chục kinh Kính Mừng, khi đọc kinh Lạy Cha ta xin gì? Điều đó ai cũng thuộc lòng: xin được hằng ngày dùng đủ, được khỏi sự dữ (ta quan niệm sự dữ lớn nhất là gì? Hãy tự xét mình xem rồi tự trả lời cách thành thật nếu đúng thì tạ ơn Chúa, nếu cảm thấy sai thì… sao?). Tuy nhiên, phần đầu của kinh Lạy Cha mới là đúng! Thử hỏi: trong thâm tâm ta có thực sự khao khát ba điều: Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện không? Hay là ngược lại, ta xin Cha hãy làm theo ý riêng con!?

Cứ xét mình thật kỹ sẽ hiểu vì sao lời cầu nguyện của ta không kết quả, mọi sự trên trần gian vẫn nát bét hơn tương, và bản thân ta vẫn chẳng ra gì? Đức Mẹ là Đấng Hằng cứu giúp thì ta hãy xin Đức Mẹ cứu giúp ta khỏi những gì. Hỏi tức là đã trả lời! Và đừng quên rằng Chúa Giêsu và Đức Mẹ là hai Đấng thấu suốt tâm can và lòng dạ con người! Dối người thì dễ, dối mình còn tạm dễ, nhưng dối Chúa Giêsu và Đức Mẹ thì không được đâu!… Hiểu như vậy, ta sẽ thấy ngay tại sao trong những lần hiện ra, Đức Mẹ thường ít khi vui, thậm chí đôi khi còn bưng mặt khóc! Bản thân Đức Mẹ cũng như Chúa Giêsu đã đi vào vinh hiển phúc lạc rồi, tại sao Đức Mẹ còn khóc? Mẹ khóc là khóc vì ta, khóc cho ta! Ta tính sao đây! Ta đến với Đức Mẹ làm gì đây? Ta nên ưu tiên xin Đức Mẹ cái gì đây?

Muốn biết nên xin Đức Mẹ ban cho điều gì, trước hết đừng xem chuỗi hạt Mân Côi như một cái máy, cứ vặn đủ vòng (150 kinh Kính Mừng) là tự động đạt một kết quả nào đó theo kiểu đèn thần Aladin. Trái lại phải cố gắng tập trung tinh thần, đi vào nội tâm, gạt bỏ những tư tưởng, hình ảnh, tình cảm, ý muốn hỗn tạp (lắm khi rất hoen ố) phải thanh lọc tâm tư, vận dụng mọi khả năng tâm hồn hướng về Chúa và Đức Mẹ, đem lý trí, tư tưởng, cảm tình, ý chí áp dụng vào những nội dung chứa đựng trong 15 sự VUI-THƯƠNG-MỪNG, mà nhìn ngắm, suy niệm, khơi động tâm tình và điều chỉnh ý chí.

Nói rõ hơn ta lấy ánh sáng toả ra từ các mầu nhiệm mà soi dọi cuộc đời mình, từ mối tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân đến các sự việc xảy ra trong đời sống toàn diện để điều chỉnh tư tưởng, cảm tình, ý muốn hành động của mình biến đổi theo gương cuộc đời của Chúa, của Đức Mẹ, có như thế, chuỗi hạt Mân Côi mới đưa ta đến chỗ sống với Chúa, với Đức Mẹ, như sống với những kẻ thân thích gần gũi. Như thế giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em có chung cùng một cuộc sống với nhau, ràng buộc chặt chẽ với nhau trong một mối dây thân ái, khăng khít cùng một cơ nghiệp, cùng một sứ mạng do Thiên Chúa ủy thác phải cùng nhau chu toàn cho trọn vẹn. Nhớ đến Chúa, nhớ đến Mẹ là sống như kẻ nữ tỳ, người nô bộc, luôn luôn đưa mắt nhìn lên tay chủ nhà, nhận mệnh lệnh, cố gắng thuận tình tuân thủ cho đẹp lòng chủ nhà. Đó là điều ta phải xin Đức Mẹ giúp ta thực hiện “khi nay” mãi mãi cho đến giờ lâm tử (là cái “khi nay” cuối cùng) rồi các điều khác sẽ được ban thêm cho sau.

Là những con người có giới hạn về mọi phương diện, ta khiêm nhường, đơn sơ cậy trông, xin Đức Mẹ ban cho ta tất cả mọi điều mà ta nghĩ là cần thiết hữu ích cho ta về tất cả mọi mặt. Nhưng ta phải biết điều gì là quan trọng chủ yếu, điều gì là thứ yếu; điều gì thực sự hữu ích và cần thiết chẳng những về lâu về dài, mà về sau mãi mãi, ở nơi mà như Lời Chúa nói “kho tàng không bị mối mọt nhấm nát” là nơi có viên ngọc quý giá vô cùng (Mt 6,19-21).

Ta biết rằng được Chúa chọn ta làm con cái Chúa là vinh dự và hạnh phúc lớn lao, nhưng cũng là được Chúa giao cho trách nhiệm khó khăn. Chúa chẳng giấu ai điều ấy cả: “vác thập giá mình hằng ngày, vào cửa hẹp, từ bỏ mình và mọi sự bị bách hại v.v”… Đó là điều kiện sống của người mang danh kitô hữu có thể nói là quy luật muôn đời của họ (nghĩa là đời nào cũng vậy thôi). Do đó, họ cần được ơn phù trợ cứu giúp – “phù trợ cứu giúp” đây là để được thêm dũng lực can trường mà phấn đấu với thử thách gian lao (có thể đi đến khổ nạn như Chúa), chứ không phải để được cứu khổ cứu nạn, thoát khỏi gian lao như người ngoại cầu xin thần linh của họ.

Đến với Chúa thế nào, đến với Đức Mẹ thế ấy: cứ suy niệm về cuộc đời ngắn ngủi của em bé chăn cừu 8 tuổi làng Fatima được Đức Mẹ thương riêng tuyển chọn là Giaxintha Marto thì sẽ rõ. Nếu cứ xin Đức Mẹ cứu  khổ cứu nạn thì có lẽ Đức Mẹ cũng thương tình đoái nhận, nhưng chắc là Đức Mẹ sẽ buồn như Chúa Giêsu đã phải buồn nhìn theo người thanh niên bỏ đi, không đáp lại lời Chúa mời gọi từ bỏ mọi của cải mà theo Chúa! Cũng như Chúa, Đức Mẹ không nài ép cưỡng bách, Ngài chỉ mời gọi: “Ai muốn theo Tôi thì…”. Muốn hay không cái đó ta hoàn toàn tự do. Ta có muốn làm vui lòng Chúa Giêsu, làm vui lòng Đức Mẹ không?

PHẦN IV: LẦN HẠT MÂN CÔI VỚI TẤT CẢ KHẢ NĂNG TÂM HỒN 

Như ta đã thấy, chuỗi hạt Mân Côi là mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa tình yêu được thâu gọn trong 15 sự kiện, trình bày dưới một hình thức cụ thể đơn giản, để bất cứ ai cũng có thể nhìn ngắm, suy gẫm, thông dự. Mà đã là tình yêu thì chỉ có tình yêu mới cân xứng. Đỉnh cao của việc lần hạt Mân Côi là hiến dâng tình yêu của ta cho Thiên Chúa qua Trái Tim Đức Mẹ và đón nhận tình yêu từ Thiên Chúa qua trái tim Mẹ. Và lĩnh vực tình yêu thì vô cùng vô tận, muôn hình vạn trạng tuỳ tâm hồn, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ tình trạng, không sao quy định được, vì do sự trao đổi hoàn toàn tự do của đôi bên với mối dây liên lạc là chính Chúa Thánh Thần, Đấng bao phủ mỗi một tâm hồn trong sự tín nhiệm như xưa kia đã bao phủ lòng băng tuyết vô nhiễm của Đức Mẹ, không cặp mắt nào của đệ tam nhân có quyền thâm nhập.

Tuy nhiên trước khi đi đến đỉnh cao ấy, ta phải tập huấn từng bước một, để dần dà đưa lòng ta vào nề nếp quy cũ. Quả vậy lòng ta vẫn thường xuyên đầy ắp những xao xuyến, tính toán, những ý tưởng, cảm tình, ước muốn hỗn tạp nên cần phải thanh luyện mới có chỗ cho tình yêu của Chúa Giêsu và Đức Mẹ ngự vào, để từ từ thấm nhuần sâu đậm biến đổi chúng ta thật thâm sâu bền bỉ. Trong bước đầu, ta cần áp dụng một vài phương pháp để dần dần đưa toàn thể con người của ta, từ cơ thể đến trung tâm của con người là linh hồn đi vào mầu nhiệm tình yêu, hay nói đúng hơn, để chính mầu nhiệm tình yêu ngự trị chiếm hữu toàn thể bản thân ta, từ cơ thể đến tâm tình.

1. VỀ CƠ THỂ

Việc tay ta chạm đến các chuỗi hạt Mân Côi, lần từng hạt một, từ từ đều đặn, đọc kinh chậm chạp với một cung bậc nào đó (khi hoàn cảnh cho phép) cũng góp phần vào sự cầm trí. Cũng nên chọn tư thế cho phù hợp: ngồi, đứng hay quỳ. Ngồi thì ngồi ngay ngắn, không uể oải, không bắt chéo chân. Đứng thì đứng thẳng, không dựa tường dựa cột. Cặp mắt khi nhắm, khi ngước lên trời, khi cúi xuống đất, khi nhìn ra xa, nhưng không đảo quanh. Tai không để cho tiếng động xâm nhập. Tất cả những chi tiết ấy ta không làm một cách máy móc, trình diễn, gò bó, nhưng vì tình yêu ta muốn làm mọi việc cách nghiêm túc thì mọi cố gắng nhỏ đều góp phần và việc tu dưỡng tinh thần và đào luyện tâm hồn. Chẳng hạn: ngắm nhìn Chúa hoặc Đức Mẹ lên trời thì nên đứng và ngước nhìn lên. Ngắm nhìn bà Elisabeth chào mừng Đức Mẹ cũng vậy. Trái lại, ngắm Chúa sinh ra trong máng cỏ thì tư thế quỳ hợp hơn… Tuy nhiên trong thực tế thì tuỳ mỗi người và mỗi hoàn cảnh, miễn sao cho cơ thể cũng góp phần vào việc cầu nguyện là được.

2. VỀ GIÁC QUAN

Các giác quan đều phải được điều khiển để khỏi bị phân tán bởi những cảm giác làm phân chia tâm trí. Cách riêng trí tưởng tượng phải được vận dụng để gợi ra những hình ảnh của từng mầu nhiệm với các nhân vật và những sinh hoạt của các nhân vật ấy. Tốt nhất là có được 15 bức ảnh để giúp ta dễ dàng chăm chú nhìn vào tránh khỏi phân tán! Nếu không thì ba tấm, tiêu biểu cho các sự VUI-THƯƠNG-MỪNG. Trong mọi trường hợp đều cần cố gắng tập trung tưởng tượng, gợi ra những hình ảnh và thái độ, ngôn ngữ, hành động và cả tâm tình, tư tưởng của các nhân vật liên hệ. Có như vậy, mới gạt được khỏi đầu óc ta những hình ảnh, những ký ức, những ý nghĩ, những cảm tình, những ước muốn tự phát tự khởi, lôi kéo ta theo dòng tâm lý tự nhiên, có khi không mấy tốt đẹp.

Những hình ảnh, cảm tình, ý nghĩ, ước muốn cao thượng sẽ dần dần đưa ta vào một cuộc sống siêu nhiên sâu xa, bền vững, dần dần thâm nhập vào tiềm thức ý thức và siêu thức, dần dần chi phối cả cuộc đời ta trong mọi lĩnh vực, và biến đổi hẳn con người ta, nhiều khi ảnh hưởng đến cả cách nhìn, cách nghe, cách ăn nói, đi đứng. Nhiều người nhận xét rằng: người kitô hữu nói chung dường như có toả ra một khí quỵển trìu mến, âu yếm, nhất là nơi cặp mắt của các thiếu nữ và các bà mẹ. Nhận xét ấy không phải là không có cơ sở. Thật vậy, một người từ thuở bé đã luôn nghe, nhìn, nghĩ về tình yêu với những hình ảnh dịu dàng của Chúa Giêsu, của Đức Mẹ cũng như của các thánh: Gioan, Magđala, Têrêxa… chắc hẳn không thể không chịu ảnh hưởng ít nhiều.

Các suy gẫm như vậy sẽ giúp ta gần như lồng mọi người, mọi việc, kể cả bản thân ta. Ví dụ: một người thầm nhuần tinh thần Kitô Giáo, thì khi nhìn một em bé tự nhiên liên tưởng đến Chúa Giêsu Hài Đồng, sự liên tưởng ấy sẽ có ảnh hưởng đến cách nhìn, cách đối xử với em bé ấy, và chính cách nhìn, cách đối xử ấy đã là một lời chứng cho đức tin một cách nào đó. Khi đối diện với một cô gái giang hồ, hẳn người kitô hữu liên tưởng đến thái độ của Chúa Giêsu với những người phụ nữ tương tự, và nhờ đó sẽ có thái độ và cách cư xử phù hợp, có thể gieo ảnh hưởng tốt.

Một ví dụ khác: khi tẩm liệm một người mẹ già qua đời, nếu liên tưởng đến Đức Mẹ lên trời, thì lòng thương tiếc tự nhiên tuy vẫn còn, nhưng sẽ thấy một sự bình an nào đó. Hoặc khi chính bản thân ta hay người thân thích phải chịu điều oan ức đắng cay, mà ta biết liên hệ đến bản án oan khiên của Chúa Giêsu (mối phúc thật thứ sáu), thì sẽ có được thái độ và phản ứng thích hợp… Một tâm hồn như vậy, nhất định phải toả ra một cái gì, có thể nói là mang dáng dấp của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria. Một tâm hồn như vậy không thể không trở nên muối, men và ánh sáng, dù là rất âm thầm, lặng lẽ, kín đáo.

3. VỀ LÝ TRÍ

Từ các cảm nhận trên, lý trí sẽ suy gẫm về những vấn đề liên hệ đến các mầu nhiệm chứa đựng trong chuỗi hạt Mân Côi, các vấn đề liên hệ trực tiếp đến nội dung đức tin, cũng như những vấn đề tâm lý, luân lý, xã hội, triết lý tự nhiên mà cuộc đời và vũ trụ đặt ra cho con người.

Nếu quen suy gẫm về 15 sự trong chuỗi Mân Côi, dần dần ta sẽ có cách nhìn, cách phê phán, cách lượng giá, cách suy luận theo đúng tinh thần của Tin Mừng trước mọi vấn đề nhờ đó ta sẽ điều chỉnh lại được, và nếu cần thì thay đổi hẳn được lề thói cũ của ta (TRỞ LẠI là vậy đó). Phê phán đánh giá quá theo tinh thần thế gian, dù không xấu và nhiều khi còn đúng nữa, nhưng chỉ đúng theo lý lẽ thế gian, chẳng có gì là Tin Mừng cả! Cứ thử xét lại vài điểm thôi đủ rõ. Ví dụ ta đã từng suy ngắm Chúa Giêsu sinh ra trong máng cỏ hoặc chết trên thánh giá, suy gẫm từ bao nhiêu năm nay, thế nhưng thử hỏi trong cuộc sống ta đã suy nghĩ thế nào, hành động thế nào trước vấn đề giàu nghèo, sang hèn, vinh nhục, thành bại ở đời?

Chẳng mấy ai trong chúng ta là ăn trộm, là đĩ điếm. Điều đó có gì lạ, có gì khác, có gì hơn những người ngoại giáo, bởi vì biết bao người ngoại giáo cũng không hề ăn trộm, không hề đĩ điếm. Nhưng thử hỏi mấy ai trong chúng ta biết đừng quá hăm hở chạy theo thắng lợi trần gian? Đừng quá chán ngán khi thất bại nặng nề? Đừng quá khắt khe với người bị xã hội kết án? Đừng quá đội lên đầu những người được xã hội tôn vinh? Thước đo giá trị ở đời của chúng ta có thực sự là tám mối phúc thật không? Nếu không thì việc lần hạt Mân Côi, việc tham dự thánh lễ của ta có lẽ chưa đạt lắm! Đọc Lời Chúa rồi để đó thì đọc làm gì? Xét mình xưng tội đâu có chỉ loanh quanh luẩn quẩn với điều răn thứ sáu thứ mười, mà phải soi dọi lương tâm từ tám mối phúc thật. Đặc điểm của Kitô Giáo, cái khác hơn của Kitô Giáo là ở tám mối phúc thật, chứ mười điều răn chỉ là tối thiểu, hầu hết các tôn giáo khác và các triết lý đều dạy những điều tương tự! Bằng lòng với cái tối thiểu thì có khác gì với người ngoại giáo bao nhiêu đâu? Như trong gia đình chẳng hạn, tương quan cha mẹ và con cái của chúng ta đã được Kitô hoá đến đâu hay vẫn còn nặng tính cách gia trưởng Khổng giáo? Lắm khi lại là hủ nho hơn là Khổng giáo chính thống! Muốn biết cứ xem việc tổ chức hôn lễ, tang lễ thì rõ.

4. VỀ CẢM TÍNH

Ta hãy khơi dậy những cảm tính cao đẹp nhất từ 15 mầu nhiệm chuỗi Mân Côi, để con tim ta dần dần rung động cùng nhịp với Chúa với Đức Mẹ và với các nhân vật tiếp cận với hai Đấng như thánh Giuse, bà Elisabeth, thánh Gioan, người trộm lành, ông Giakêu v.v…

Ta có thể tạo nên như một thế giới của tâm tình, sống như thể đồng thời với Chúa, với Đức Mẹ để như tạo những mối dây thân tình bằng hữu với các nhân vật được gần gũi với Chúa và Đức Mẹ xưa kia. Ví dụ chiều thứ sáu, ta có thể san chia nỗi đau đớn xót xa của Đức Mẹ, như chính ta sống đồng thời với Đức Mẹ vậy. Sáng thứ hai, ta có thể vui vẻ chào mừng Đức Mẹ, như bà Elisabeth đã chào mừng. Chiều chúa nhật, trong bữa ăn tối, ta có thể chung vui với các Môn đệ trên đường về Emmau được Chúa Phục Sinh tỏ mình dùng bữa chung bàn. Suốt ngày thứ bảy, ta nên sống trong sự chờ đợi cậy trông. Còn ngày thứ tư, ta có thể sống như được thánh Giuse và thánh Gia Thất đến viếng thăm và ở lại nhà mình, như một gia đình thân từ xa đến chơi vậy. Ngày thứ ba, ta có thể san chia cuộc đời bôn ba vất vả giữa quần chúng của Chúa và các Tông Đồ. Còn ngày thứ năm, thứ sáu, có thể noi gương thánh nữ Magaritta Maria à la Coque chia cuộc tử nạn với Chúa, đi sâu vào mầu nhiệm sự dữ với hai khía cạnh khổ và tội của kiếp nhân sinh.

Chúa và Đức Mẹ mời gọi ta sống tiếp cận với hai Đấng trong mọi hoàn cảnh. Thế nhưng, trong những giây phút vui mừng của cuộc sống, ta có thể đem lòng mình lên kết hợp với năm mầu nhiệm Vui và năm mầu nhiệm Mừng của chuỗi hạt Mân Côi để nhờ Đức Mẹ dâng lời cảm tạ Chúa không? Hay ta chìm ngập vào một thái độ hưởng thụ, chiếm hữu, bám víu, hoàn toàn thế tục. Ngược lại, khi ưu sầu phiền não, ê chề tê tái, ta có biết tìm đến với Chúa trong vườn Giệtsimani, không phải chỉ để tìm an ủi, nhưng còn để thông dự với Chúa, với bao nhiều anh chị em khác đã, đang và sẽ uống chén đắng cay của kiếp người, nhưng vẫn yêu đời, vẫn tin tưởng, cậy trông và yêu mến, để nhờ đó ta sẽ can đảm mà dịu dàng, không phẫn nộ oán thù, cũng không hèn nhát trốn chạy, vì trên con đường cay đắng ấy, ta biết ta không cô đơn một mình, nhưng có bạn đồng hành là Chúa trong anh em và anh em trong Chúa.

Bi đát nhất là những lúc ta thấy mình cũng chẳng hơn gì Giuđa, Caipha, Philatô, Hêrôđê, những lúc ấy ta có thể bị hình ảnh Giuđa lủng lẳng treo cổ trên cành cây ám ảnh! Thế nhưng hãy nhớ rằng Phêrô, nền tảng của Hội Thánh, cũng đã hèn nhát chối Chúa ba lần, để rồi như Phêrô, ta sẽ bám chặt lấy Chúa, không phải để bay bổng chơi vơi trong một thế giới huyền ảo lung linh, đẹp như ảo, song là để lăn xả vào cuộc sống, cùng với Cha nhảy xuống biển đời và lòng người đầy sóng gió, bão tố, đầy đau thương và tội lỗi, kể cả chính lòng ta! Phêrô không phải là mây bay lơ lửng trên trời nhưng là đá gieo xuống đáy biển, bởi vì chính Ngôi Hai đã xuống thế làm người.

5. VỀ Ý CHÍ VÀ HÀNH ĐỘNG

Làm người như Chúa Giêsu và với Chúa Giêsu, Đấng đã sinh ra bởi bà Maria.

Làm người nghĩa là sống thực, với cuộc đời thực có sinh ra, có ăn mặc, có lao động, có tiếp vật xử kỷ với trăm nghìn công việc: đánh cá, dệt vải, đi chợ, nấu cơm, xây nhà cầu, dọn chuồng heo, giặt quần áo, nộp thuế, bỏ phiếu, chen mua vé xe, đi dự míttinh, có thể ra toà, tham dự chiến trường, và cũng có thể ngồi tù, thậm chí ra pháp trường, cũng như có thể giữ địa vị quan trọng xã hội quốc gia và quốc tế ở mọi lĩnh vực, kinh tế ngoại giao, văn nghệ, khoa học…

Làm, nghĩa là hành động do sự lựa chọn và quyết định của mình giữa những khả năng mở ra nhiều lối giành lấy cho được hay nhường nhịn? Im lặng hay cãi vã giành phần thắng? Lấy mang đi hay để lại? Tiếp tục nằm xem tiểu thuyết hay đi ra khỏi nhà? Tiến lên hay tháo lui? v.v…Quyết định và chọn lựa chính là lửa thử vàng để rõ chân tướng của mình, đó chính là vị quan toà cuối cùng. Quả vậy, tri giác, tưởng tượng suy luận, cảm giác chỉ là dọn đường chuẩn bị đi đến sống bằng hành động thực tế như Mẹ Maria thưa “Xin vâng” và mang thai Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu thưa “Xin như ý Cha” và dấn thân vào cuộc khổ nạn.

Chiêm niệm Kitô Giáo bao giờ cũng dẫn đến hành động (không có nghĩa là hoạt động rầm rộ, lẫy lừng) dấn thân cho đến cùng (dầu có chết) tức là phải dùng ý chí đi đến những quyết định nhờ ánh sáng toả ra từ Mầu nhiệm cứu độ, chứ không phải từ lý trí khôn ngoan trần thế, hay nói như thánh Phaolô: từ sự điên rồ của Thập giá chứ không phải là sự khôn ngoan của thế gian. Phanxicô thành Atxidi từ bỏ cơ nghiệp giàu có để đi hành khất: điên rồ! Phanxicô Xaviê từ bỏ sự nghiệp trí thức hàn lâm, lê gót chân vượt muôn gian nguy rao giảng Tin Mừng: điên rồ! Bao nữ tu từ bỏ lời mời mọc của những thanh niên ưu tú, dấn thân cuộc đời (có khi trên 70 năm) hãm mình cầu nguyện trong ẩn viện, hoặc phục vụ những bệnh nhân mắc các chứng nan y: điên rồ!…

Đó là nói về những tâm hồn vĩ đại. Còn chúng ta dù sống cuộc đời tầm thường, ta vẫn luôn phải lựa chọn giữa con đường rộng theo thế gian và con đường hẹp theo Chúa luôn phải trở lại, từ con đường rộng chuyển sang con đường hẹp để có thể trung thành với Chúa Giêsu và Đức Mẹ cả trong những việc tầm thường nhỏ nhặt cũng vậy: đời chúng ta nào mấy ai, mấy khi có việc lớn? Nhưng chính những cái nhỏ nhặt dệt nên cuộc đời vẫn luôn đặt ra trước sự lựa chọn: nhảy lên xe này hay đợi xe khác, lên xe rồi tranh hay nhường chỗ tốt, trung thực làm chứng cho sự thật hay a dua nịnh hót dối trá? Bỏ qua hay là cố chấp xét nét về những thiếu sót nho nhỏ hằng ngày của anh em đối với ta. Mượn đồ chậm trả, không chờ cùng đi làm cho tiện, từ chối không giúp ai một việc nào đó… Ngừng lại giúp anh em một tay cho chóng xong để họ về sớm, lo việc nhà hay mặckệ miễn sao mình xong sớm? Mình về trước, ai về sau mặc ai! Về khuya cứ đi nặng bước hay cố gắng đi nhẹ, nói nhỏ để hàng xóm được an giấc, luôn luôn chữ “hay” ấy có sẵn đó như thuốc kiểm nghiệm thực chất lòng ta thế nào so với luật tình yêu: mến Chúa yêu người, mà gương mẫu là những gì chứa đựng trong 15 sự của chuỗi hạt Mân Côi.

Mục đích cuối cùng của việc lần hạt Mân Côi cũng như của việc thờ phượng khác đều nhằm giúp ta biết nhờ sự soi sáng phù trợ của Chúa và Đức Mẹ mà vận dụng ý chí mà lựa chọn, quyết định và hành động trong cuộc sống hằng ngày sao cho hợp với Lời Chúa: “Bỏ mình vác Thánh Giá mỗi ngày mà theo Tôi”. Ngày nay chẳng còn ai đóng đinh ta như đóng đinh Chúa, nhưng thập giá chính là cuộc sống hằng giây hằng phút, từ việc trọng đại đến việc vụn vặt chúng ta đều được mời gọi lựa chọn bỏ mình, bỏ thế gian, bỏ ma quỷ mà theo Chúa, theo Đức Mẹ hay ngược lại, lần hạt Mân Côi là để suy ngắm mà đối chiếu cuộc sống hằng ngày của ta với thân thế sự nghiệp của Chúa và Đức Mẹ, nhờ đó ta điều chỉnh mọi sự cho phù hợp với Lời Chúa, sao cho đẹp lòng Chúa, vui lòng Mẹ chứ không phải để tìm an ủi hay giải khuây như đi xem văn nghệ hoặc trốn chạy cho rãnh sự đời. Chúa phán với Angèle de Foline rằng: “Cha yêu con không phải chuyện đùa”. Yêu là sống chết với nhau chứ không phải chuyện tình cảm mơ mộng viễn vông (dù là mơ mộng thần hiện).

Đòi hỏi của chuỗi Mân Côi là thế đó, nhưng ta đã thực hành ra sao? Xin thử gợi vài câu hỏi để chúng ta cùng suy nghĩ:

– Trong ngắm thứ nhất của năm sự vui, ta thấy một vị Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn, nhập thể thành một bào thai bé tí, nhỏ thua một hạt kê trong lòng một thiếu nữ nghèo nàn, hèn mọn ở một làng quê hẻo lánh. Sau khi suy ngắm sự khiêm tốn ấy, ta mơ ước gì, danh vọng trần gian còn hấp dẫn ta không?

– Trong ngắm thứ hai, Đức Mẹ tuy bụng mang dạ chửa mà vẫn mau mắn lên đường, đi thăm chị em sắp sinh nở, sau đó còn ở lại giúp đỡ thêm ba tháng, trong khi chính mình cũng không khoẻ gì lắm. Việc suy ngắm tình thương ấy giúp ta cải thiện thế nào trong tương quan với thân bằng quyến thuộc?

– Ngắm thứ năm, ta suy ngắm về mầu nhiệm Đức Mẹ và thánh Giuse bị lạc mất Chúa Giêsu, về câu nói Chúa trả lời cho hai ông bà và về thái độ của hai ông bà. Sau những suy niệm ấy, ta đã quan niệm thế nào về liên hệ vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em? Có phải là một cộng đoàn lấy việc giúp nhau “lo việc của Cha trên trời” là chính, hay chỉ là một tổ hợp sản xuất, một hội tương tế trọn đời? Kết hôn để làm gì? Nghi gia, nghi thất, tề gia nội trợ, nương tựa khi ốm đau, già nua, nối dòng nối dõi… là những điếu tốt. Nhưng phải chăng chỉ dừng lại ở đó? Phải chăng ta chỉ xin Chúa và Đức Mẹ ban ơn cho đạt những mục tiêu ấy và lấy thế làm đủ? Hay còn gì khác nữa? (Thử hỏi và xem lại lời cầu nguyện Tôbia và Rêbecca trước khi hợp đầu. Thử suy nghĩ về gia đình song thân của thánh nữ Têrêxa thì sẽ hiểu).

– Khi suy ngắm Đức Mẹ theo chân Chúa vác thánh giá lên núi Sọ, ta thử kiểm điểm xem, ta có quyết định vác lấy những phần việc khó nhọc trong đời sống gia đình, xã hội không? Hay ta cho như vậy là dại, và ta khôn tìm cách dồn cho người khác (rồi lại cười thầm họ là dại!). Ta muốn khôn dại theo tiêu chuẩn nào? Đừng quên rằng trong vườn địa đàng, nguyên tổ cũng chỉ muốn ăn trái cấm để trở nên khôn theo lời xúi giục của ma quỷ! (Cây trái cấm là cây của sự biết tốt xấu, và cây của sự khôn đó). Phanxicô thành Atxidi là khôn hay dại, Tào Tháo là khôn hay dại? Ta muốn chọn khôn và dại theo kiểu nào? Có thật là ta đang theo cái khôn của Đức Mẹ là Đấng “cực khôn cực ngoan” không?

Sự khôn ngoan của Đức Mẹ có giúp ta thấy rằng trong năm sự Vui bao hàm một nhân sinh quan chú trọng vào đời sống nội tâm, kín đáo, âm thầm, hèn mọn? Những sự kiện như Thiên Chúa ngự xuống sinh ra làm người ở trần gian, quả là những sự kiện kinh thiên động địa, hoán cải mặt địa cầu. Thế mà nếu không có Luca ghi lại thì ngàn đời không ai biết được (có lẽ Luca biết được là do lúc già Đức Mẹ kể lại, như bà kể chuyện con cháu nghe thôi). Vậy thì ta còn dại dột hay là khôn lỏi chạy theo những gì rầm rộ nhất thời để rồi tàn lụi nhiều khi còn kéo cả nhân loại vào những cơn máu lửa ngập trời ngập đất? Ta nên khôn theo kiểu Tần Thuỷ Hoàng, Thành Cát Tư Hãn, Napoléon, hay nên dại theo kiểu Phanxicô thành Atxidi, Vinh Sơn đệ Phaolô, Têrêxa Hài Đồng, cha Phêrô Đamiêng, Charles de Foucauld…

Nói tóm lại, lần hạt Mân Côi không phải là làm như vặn máy tự động hoặc đọc lời thần chú để đạt những ước mơ trần gian của mình, theo quan điểm xác thịt trần thế! Lần hạt Mân Côi là tập trung tinh thần suy ngắm Mầu nhiệm cứu độ, mở rộng tâm hồn đón nhận lấy ân sủng đến cho đời ta trở nên một cuộc nhập thế. Tử nạn Phục Sinh được tiếp diễn trong Chúa Thánh Thần, nhờ sự chuyển cầu trợ giúp của Đức Maria là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, là Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế về phần thân xác và là Mẹ sinh ra ta trong ơn cứu độ về mặt thiêng liêng.

Lần hạt Mân Côi với tinh thần trọn đầy ta sẽ từng bước thoát ra khỏi những thành kiến cố chấp, dính bén theo thói đời, và sẽ có một cái nhìn, một cảm xúc, một phong thái đổi mới về toàn thân, về cuộc sống về nhân sinh vũ trụ, được soi sáng dưới ánh sáng chân lý đức tin, ta sẽ đi đến chỗ thấy rõ ràng thế giới siêu nhiên là một thực tại thật sự là thật, và đời sống tâm linh mới là đời sống cơ bản làm nền tảng cho cuộc sống bên ngoài: nhờ đó dù bên ngoài có tầm thường đến đâu, cuộc đời chúng ta cũng có thể mang lấy một chiều kích, một giá trị và một ý nghĩa vĩnh cửu, vô cùng cao đẹp, gần như tuyệt diệu. Mọi sự khác đối với ta sẽ trở nên ấm cúng, ta sẽ không bị chúng làm mê hoặc đồi trụy, nô lệ hay tha hoá nữa. Ngược lại, chúng sẽ trở nên những vật liệu được ta làm chủ và xây dựng chính xác thực tại siêu nhiên mà 15 sự mầu nhiệm chứa đựng trong chuỗi Mân Côi là một sự thâu gọn, bao hàm súc tích và phong phú vô tận.

Đồng thời ta cũng nhờ đó mà trở nên một người mới, được tái sinh bởi Thánh Thần, cuộc đời ta sẽ trở nên đổi mới. Đối với sự đổi mới này thế kỷ 20 hay thế kỷ 1000 lũy thừa vô cực đi chăng nữa cũng vẫn là già cỗi so với thế kỷ thứ nhất, khi thực tại siêu nhiên ấy ra đời với sự hiện diện của Đức Mẹ trong ngày Thánh Thần ngự xuống, khai sinh ra Hội Thánh Chúa Kitô, Hội Thánh mà Đức Mẹ vừa là Nữ Hoàng, vừa là Trưởng Nữ, vừa là tiêu biểu tượng trưng: cái Hội Thánh làm mầm sống cho trời mới đất mới, đã gieo vào vườn trần thế, đợi ngày nở rộ vào giây phút cánh chung, lúc Chúa lại ngự đến.

Mỗi khi ta lĩnh nhận bí tích Thánh Thể, mầm sống đời sống thiêng liêng được gieo vào lòng ta, cây mầm siêu nhiên được tháp vào gốc cây tự nhiên của bản thân ta. Cây thiêng liêng ấy về mặt Bí Tích, được nuôi dưỡng trong lòng Mẹ Hội Thánh. Về mặt siêu nhiên được nuôi dưỡng trong lòng Mẹ Maria mà chuỗi hạt Mân Côi là một phương thế hữu hiệu vào bậc nhất giúp ta tiếp cận với Ngài.

Lần hạt Mân Côi mà biết quy tụ cả toàn bộ hệ thống khả năng bản thân: cơ thể, giác quan, tưởng tượng, lý trí, tình cảm, ý chí như thế, biết hướng về Chúa Giêsu và Đức Mẹ được diễn tả qua 15 sự VUI-THƯƠNG-MỪNG như thế, thì khác nào ta được cưu mang, che chở, bồi dưỡng tăng trưởng về đời sống thiêng liêng trong lòng băng tuyết vô nhiễm của Đức Maria, cho đến ngày mãn nguyệt khai hoa vĩnh viễn, ngày ta được sinh ra trong cuộc sống muốn đời trên Nước Trời muôn thuở.

Như vậy chuỗi hạt Mân Côi xoay vòng luân chuyển khác nào vòng tay Đức Mẹ, khác nào chính cung lòng Đức Mẹ đang đùm bọc che chở ta như một bào thai.

PHẦN V: ĐƯA CUỘC SỐNG THIẾT THỰC HẰNG NGÀY LỒNG VÀO CHUỖI MÂN CÔI 

Sau khi nhấn mạnh đến sức biến đổi nội tâm mà việc lần hạt Mân Côi đem lại, giờ đây ta sẽ tìm hiểu khía cạnh cuộc sống, tức là tìm kiếm xem tinh thần của chuỗi hạt Mân Côi có thể có ảnh hưởng thế nào trên những sinh hoạt bên ngoài của ta.

Có thể nói chuỗi hạt Mân Côi là dấu chỉ của sự phù trợ và hiện diện thiêng liêng của Đức Mẹ. Sự hiện diện ấy đem lại một bầu khí êm ái, dịu hiền, ấm áp, an vui, cần thiết để con người cảm thấy gần gũi Thiên Chúa. Bởi vì dù Thiên Chúa đã hạ mình đến mức xuống thế làm người, Ngài vẫn là Đấng chí tôn ngàn trùng chí thánh. Con người vẫn cứ cảm thấy Thiên Chúa quá vô cùng siêu việt, dường như có cái gì ngăn cách mình với Thiên Chúa. Đặc biệt là những khi lỡ lầm sa ngã, hoặc những khi được Thiên Chúa đưa vào sự thanh luyện của đêm tối thần hiệp tâm linh, con người càng cảm thấy như bị cách xa, vắng mặt Chúa. Những lúc ấy, Đức Mẹ chính là Đấng Chúa gửi đến như lời nhắc nhủ, mời gọi, khích lệ để ta có đủ can đảm mạnh dạn tiến lên đường tìm Chúa.

Vả chăng chính Ngôi Hai Thiên Chúa khi đến với loài người cũng phải nhờ tới sự trung gian của Đức Mẹ. Chính Đức Mẹ đã dâng huyết nhục mình cho Ngôi Lời Thiên Chúa trở nên xác phàm. Chính trong cung lòng Mẹ, Thiên Chúa và con người thực sự trở nên một, trong Đức Giêsu Kitô bào thai! Nếu ví sứ thần Gabriel là đại diện cho Thiên Chúa đến làm lễ vấn danh với loài người và toàn thể tạo vật, thì Đức Nữ Maria là đại diện cho nhân loại và toàn thể tạo vật thưa lên lời “xin vâng” thuận tình, khởi đầu cho cuộc giao duyên hôn phối giữa Đức Kitô và Hội Thánh là Hiền Thê của Ngài: Hội Thánh mà Đức Maria là biểu tượng, là đại diện, là mẫu mực. Lời “xin vâng” của Đức Maria là khởi đầu cho mọi lời “xin vâng”, đền bù lại sự từ chối kiêu ngạo của nguyên tổ, đã phụ tình bạc nghĩa với Thiên Chúa tình yêu để chạy theo lời quyến rũ của Satan. Sự ngạo mạn của nguyên tổ đã được đền bồi bằng sự khiêm hạ của người thiếu nữ biết dâng lời “xin vâng”, biết tự xưng mình là “nữ tỳ của Thiên Chúa”, và lúc ấy tự khắc “kẻ nữ tỳ” được tôn phong là “Mẹ Đức Chúa Trời”.

Nơi Đức Mẹ Maria, ngay từ phút đầu, tám mối phúc thật đã được thực hiện vẹn toàn: cao cấp, sang hèn, khinh trọng, dại khôn đã bị đảo ngược. Bà Elisabeth chào Đức Mẹ là Đấng có phúc là vì vậy. Phúc đây là phúc thật bởi trời. Chính Đức Mẹ trong sự khiêm nhượng, với ý thức thân phận nữ tỳ, cũng xác nhận rằng: “Muôn đời sẽ khen tôi là có phúc”: phúc vì biết mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, chứ không như nguyên tổ muốn trở thành ngang hàng với Thiên Chúa.

Mẹ là nữ tỳ thì đương nhiên con là tôi tớ! Là người tôi tớ của Giavê mà từ hàng trăm năm trước ngôn sứ Isaia đã nhìn thấy khuôn mặt tan nát tả tơi, mà Philatô đã đưa ra trình diện với muốn thế hệ loài người – Này là Con Người – Đúng chỉ là người, con người 100% trong yếu tính thuần khiết  của nó. Quả vậy, Giêsu và Maria ở Nadareth thuộc họ ông Giuse phó mộc mà ai cũng rõ lý lịch gốc gác đến mấy mươi đời. Đó là hai người như bất cứ con người nào trong hàng ngũ con cháu Ađam Eva, thân phận của hai Đấng là “làm người”. Không thêm một danh hiệu nào cả: Bác học? Không! Hiền triết? Không! Quý phái? Không! Anh hùng? Không! Lực sĩ? Không! Tài tử? Không! Thiên sứ cũng không!

Nói tóm lại, không phải là điển hình riêng cho hạng người nào cả, mà chỉ là người, đại diện chung cho bất cứ ai là người, dù thuộc loại nào! Người thường, thuần tuý là người và chỉ là người trống trơn! Người như mọi người ở mẫu số chung là người. Quả là người của mọi người. Hễ ai là người đều có thể nhận ra thân phận làm người của mình nơi khuôn mặt của con người ấy (đó là ý nghĩa sâu xa của việc tôn sùng Thánh Diện Chúa mà ngôn sứ Isaia đã vẽ lên những nét tuyệt vời).

Nhưng cũng như Đức Mẹ, ngay từ lúc xưng mình là nữ tỳ Thiên Chúa, liền được tấn phong tức khắc làm Mẹ Thiên Chúa, thì người tôi tớ của Isaia cũng được tức khắc tuyên dương “Này là con yêu dấu của Ta, người con mà Ta lấy làm đẹp lòng” và đặt lên ngôi Chúa Tể muôn loài.

Dù sao thì lúc sinh thời ở trần gian này, Đức Mẹ chỉ là một phụ nữ tầm thường như bất cứ phụ nữ nào ở mọi thời đại và mọi gầm trời. Thời thơ ấu và thiếu niên của Chúa Giêsu chẳng có gì đặc biệt: lặng chìm giữa đám đông vô danh của đại đa số nhân dân nghèo khổ lam lũ. Chỉ có loé lên giây phút các mục đồng và ba vua đến thờ lạy Chúa Hài Nhi (nhưng phải trả giá bằng điều cụ Simêon tiên báo, mà bước đầu đã ẳm con lánh nạn tha phương). Rồi lại chìm trong bóng tối suốt 30 năm! Ba năm Chúa đi rao giảng, Đức Mẹ xuất hiện rất ít, kín đáo. Ngay ở tiệc cưới Cana, Đức Mẹ cũng chỉ bảo cho Chúa biết tình trạng thiếu rượu, như một gợi ý chứ không trực tiếp cầu xin. Trên đường Chúa lên đỉnh núi Sọ, Mẹ chỉ âm thầm lặng lẽ bước theo. Trong khi các Tông Đồ chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống, Mẹ cũng chỉ âm thầm có mặt hiệp ý cầu nguyện, sau đó lại chìm hẳn vào bóng tối. Và dù Thánh Kinh không nói, ta cũng có thể đoán chắc rằng về già Đức Mẹ rất neo đơn. Sau khi Stêphanô và Giacôbê bị giết, các môn đệ Chúa tản mác. Có lẽ Đức Mẹ cũng cùng lánh nạn nơi nào đó với Gioan. Thế nhưng cũng có thể Đức Mẹ trút hơi thở cuối cùng lại không có Gioan bên cạnh, vì ông này bị đày ở đảo Pátmô. Như thế đám tang Đức Mẹ chẳng khác gì cảnh táng xác Chúa Giêsu: Chẳng biết có ai là người thân thích tiễn đưa Đức Mẹ tới nơi an nghỉ cuối cùng?

Trong bài Magnificat chính Đức Mẹ tiên báo rằng muôn đời sẽ tuyên dương Ngài “có phúc”. Thế nhưng thuở sinh thời, Ngài chỉ được khen tặng như thế hai lần: một lần do bà Elisabeth, lần kia do một phụ nữ khác, khen Ngài có phúc vì được cưu mang dưỡng dục Chúa Giêsu (Lúc 11,27). Ngoài ra chính lời tiên báo của cụ Simêon mới thật nói rõ: “Lòng bà sẽ như bị lưỡi gươm xuyên thủng”. Nói theo thế gian, cuộc đời của Đức Mẹ có thể gọi là “vô phúc” sinh nở bên vệ đường, phải đặt con nơi hang lừa máng cỏ, con còn thơ ấu đã phải ẳm lánh nạn tha phương, con khôn lớn chưa kịp mừng đã phải đứng dưới chân Thánh giá nhìn cạnh sườn con – người Con một yêu dấu – bị đâm thủng, máu và nước chảy ra. Rồi chôn con chưa được bao lâu đã phải chứng kiến cảnh các môn đệ của con mình bị bách hại tản mác. Ngay bản thân Đức Mẹ ta cũng chẳng rõ Đức Mẹ đã sống tuổi già ở đâu, trong điều kiện khắt khe như thế nào; chỉ biết rằng là Mẹ của một tên tử tội mà đồ đảng đang bị lùng bắt, dưới chế độ khắt khe của đế quốc Lamã, với mấy tầng áp bức, với sự thù hằn của phái Pharisêu, thì chẳng cần nói cũng đoán được ngay là chẳng có phúc chút nào cả. Đó, cuộc đời trần thế của Đấng được gọi là “đầy ơn phúc” là như vậy đó. Cuộc đời của em bé Giaxintha, người được Đức Mẹ chọn cách riêng đầu thế kỷ 20 này cũng chẳng hơn gì. Đó là quy luật muôn đời của Tình Yêu cứu chuộc, của Mầu Nhiệm Thánh Giá, mà thực ra là thập giá, khổ giá; có cầu tiến, có canh tân, có thích ứng hay tệ hơn có thoả hiệp, theo đuổi, a tòng với thời nào, thì cũng không thể khác được.

Cuộc đời của Đức Mẹ có thể nói được là cuộc đời có nhiều, rất nhiều đau khổ. Gần đây khi tỏ mình cho bà Borthe Petie về việc tôn sùng Mẫu Tâm, Đức Mẹ có ý nhấn mạnh đến khía cạnh “Trái tim đau khổ và vẹn sạch” của Đức Mẹ, Trái tim tân khổ và vô nhiễm. Hai đặc tính ấy có liên hệ mật thiết với nhau. Nhà nữ triết học Simone Weil có viết đại ý như sau: trong một thế giới có sự dữ, thì sự dữ đau khổ có thể xem như vừa là trừng phạt (hậu quả tất yếu) của tội lỗi, vừa là thuốc chữa trị. Tội lỗi và đau khổ là một cặp anh em song sinh. Nhưng nếu có nơi nào chỉ có sự đau khổ thuần tuý, nghĩa là không kèm theo tội lỗi (hay nói cách khác: “tân khổ mà vô nhiễm”) thì sự hoen ố của tội lỗi sẽ được hoàn toàn rửa sạch.

Trái Tim Chúa bị lưỡi đòng xuyên thủng, Trái Tim Mẹ bị lưỡi gươm vô hình xuyên thâu, chính là hai nơi mà sự tân khổ thật thuần khiết. Cho nên đó là hai nơi xoá sạch tội lỗi tràn ngập trần gian (những tội lỗi đáng lẽ phải có trăm nghìn lần đại hồng thuỷ để rửa sạch).

Đó là ý nghĩa của mầu nhiệm khổ giá. Đó là chìa khoá giải mở cho vấn đề vô cùng bế tắc là vấn đề đau khổ của những tâm hồn vô tội. Như thế sự tôn sùng Trái Tim tân khổ và vô nhiễm của Đức Mẹ không phải là chuyện tình cảm ướt át mà là đỉnh cao của tình yêu cứu chuộc, gắn liền với việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đức Mẹ thường xin con cái mình an ủi, nhưng đây không phải là chuyện mẹ con khóc vùi với nhau cho vơi nỗi ưu sầu về tình cảm, mà là để giúp Mẹ trong vai trò “Đồng công cứu chuộc”, chính là để gánh lấy phần nào chức năng của Mẹ, thông dự vào mầu nhiệm tân khổ vô nhiễm của Mẹ. Đó là lời mời gọi hoán cải cho bản thân sạch tội, bớt tội để trở nên giống Mẹ phần nào, và nhờ đó có thể chung vai san sẻ tân khổ để cùng với Mẹ góp phần vào công cuộc của Chúa. Càng sạch tội, càng tân khổ, tác động cứu độ càng lớn càng cao.

Siêng năng lần hạt Mân Côi là để suy gẫm về Mầu nhiệm cứu chuộc, là để điều chỉnh cuộc sống theo ánh sáng đức tin phát xuất từ thân thế và sự nghiệp của Chúa và của Mẹ, đem ánh sáng ấy áp dụng vào chính đời mình để thực sự trở nên môn đệ Chúa và con cái Mẹ, đi sâu vào Mầu nhiệm Đồng Công Cứu Chuộc mà Hội Thánh (trong đó ta là tế bào) phải tiếp tục chu toàn ở trần gian.

Mẹ là Đức Mẹ Chúa Trời, là Đấng có tài có phép, có lòng thương xót, là Đấng an ủi kẻ âu lo, phù hộ các giáo hữu, cứu kẻ liệt kẻ khốn. Nhưng trước hết, Mẹ là Mẹ Chúa Cứu Thế. Chức năng đầu tiên của Đức Mẹ là đứng dưới chân Thập giá, dâng con mình lên làm của lễ hy sinh cứu chuộc nhân loại thoát khỏi xiềng xích tội lỗi do thần dữ trói buộc con người.

Đành rằng cũng như Chúa Giêsu, đôi khi Đức Mẹ có tỏ quyền phép bằng những phép lạ, can thiệp vào quy luật tự nhiên, tâm lý, xã hội để cứu thoát cá nhân cũng như xã hội qua nhiều cơn nguy khốn: tuy nhiên đó chỉ là cách biểu hiện sự hiện diện tình thương yêu và quyền năng, để khơi động lòng tin cậy, đưa con người lên cao, chứ không phải là mục đích chính yếu. Tại các trung tâm hành hương, nước suối có khả năng chữa bệnh chỉ là dấu hiệu bên ngoài cho con cái biết “có Mẹ ở đây”, còn tác động chủ yếu của Chúa và Đức Mẹ là ở nơi các toà giải tội, nơi hàng triệu linh hồn đã chết vì tội lỗi được tái sinh: đó mới là tâm điểm của Lộ Đức, Fatima cũng như ở bất cứ nơi nào Đức Mẹ tỏ mình. Điều Đức Mẹ mong chờ là sự hối cải. Ngài ban ơn phù trợ là để ta hối cải. Quả vậy, dù phần xác có được Đức Mẹ chữa lành thì cuối cùng như Lazarô được Chúa cho sống lại, chỉ sống thêm một thời rồi trở về cát bụi. Chính việc rỗi linh hồn, việc sống muôn đời mới thực sự là vấn đề thiết yếu, vô cùng quan trọng.

Quyền phép của Thiên Chúa và của Đức Mẹ biểu hiện chính là ở chỗ tái tạo các tâm hồn. Công việc này mới thực là khó, rất khó. Suy nghĩ sau đây sẽ cho ta thấy đâu là dấu chỉ của một quyền lực siêu phàm. Ở thế kỷ 13 chắc không mấy ai tin rằng việc lên cung trăng hay du hành vũ trụ là việc mà con người có thể tự sức làm được. Thế nhưng ngày nay đã thành sự thật. Khoa học và kỹ thuật chắc chắn còn đi xa, và sẽ còn đi xa nữa (nếu loài người không dại dột tự huỷ trong một cuộc đại chiến tranh bằng vũ khí hạt nhân, hoá học, vi trùng). Trong khi đó, trái lại, dù thế kỷ 20 hay mấy mươi đi nữa, chỉ có Thiên Chúa và Đức Mẹ mới có quyền năng biến cậu Phanxicô quen thói bốc trời thành Phanxicô Atxidi nghèo khổ, biến hầu tước Charles de Foucauld thành anh tiểu đệ Charles de Jésus.

Không cần phải ngồi ở toà giải tội, chỉ nhìn qua thời sự quốc tế, cũng như chuyện hàng xóm, chuyện gia đình hàng ngày, và nhìn nơi chính lòng mình, dù thấy rằng lòng người, tâm hồn con người vẫn y như thuở nào nếu không muốn nói là ngày càng tuột dốc, thoái hoá. Đó, lòng người mới chính là nơi cần đến phù trợ cứu giúp một cách đặc biệt. Quả vậy, từ trong các tác phầm từ nghìn xưa như Iliade, Odyssée, Đông Chu liệt quốc, qua các thời đại cho đến thế kỷ 20 này, với các tác phẩm của văn nghệ sĩ các nước, thuộc mọi chế độ chính trị ta thấy rằng bản chất con người vẫn như cũ, nếu không muốn nói là tệ lậu hơn! Thế nên cho đến nay, ơn cứu độ vẫn còn. Mà có lẽ còn cần hơn bao giờ hết, Bởi vì ngày nay trong tay con người đã có những vũ khí kinh hoàng, óc con người đã tinh khôn quá quắt, mà than ôi lòng dạ con người thì… xin để mọi người tự vấn lương tâm. Lòng dạ như thế mà tay cầm những vũ khí ấy, đầu óc tính toán ghê gớm như vậy, thì quả thật cần phải thốt lên: từ dưới đáy vực sâu, con kêu lên cùng Chúa, cùng Đức Mẹ vậy!!!

Đức Mẹ hiện ra tỏ mình, chủ yếu là để chỉ đường vạch lối cho loài người thoát khỏi tình trạng nguy khốn ấy, chứ không nhằm chữa bệnh thay vũ khí, hay ngăn ngừa thiên tai hạn hán, sản xuất cơm áo… Những chuyện ấy đã có bàn tay và khối tài năng của con người lo rồi. Chỉ riêng lòng người mới là cần sự cứu giúp phù trợ, để cải tà quy chính, để trừ ác phục thiện, quyền lực lớn nhất của Đức Mẹ không phải là ở nước suối Lộ Đức mà là ở ơn Vô Nhiễm. Các phép lạ ở Lộ Đức chỉ là những tia sáng nhỏ giúp mở mắt cho ta nhìn lên ơn Vô Nhiễm, là vầng trăng rằm chiếu rạng khắp đêm đầy tội lỗi của trần gian.

Vì vậy, lúc bắt đầu, khi ta còn non yếu, có thể ta còn cần và nên xin với Đức Mẹ các ơn này ơn nọ để Đức Mẹ thêm sức, củng cố đức tin cho ta, còn khi đã bắt đầu trưởng thành, ta chỉ nghĩ đến chuyện cùng với Đức Mẹ góp phần mình trong sự nghiệp chung của đại gia đình con cái Thiên Chúa, theo chân Chúa. Tin Mừng có ghi lại Chúa có làm nhiều phép lạ, nhưng trong sa mạc, sau khi Chúa ăn chay 40 ngày, ma quỷ xúi giục, thách đố Chúa làm phép lạ, Chúa lại từ chối. Đức Mẹ cũng làm rất nhiều phép lạ. Nhưng chính Phanxicô và Giaxintha ở Fatima thì lại chết yểu sau những cơn bệnh nặng, Bernadette ở Lộ Đức suốt đời mang bệnh về đường hô hấp, mắc phải từ lúc thiếu thời vì đời sống quá thiếu thốn nghèo nàn.

Ta cần suy gẫm nhiều, thật nhiều về các điều ấy để thấy rõ ý nghĩa của các việc: lần hạt Mân Côi, tôn sùng Đức Mẹ… Đó không phải là việc sốt sắng theo tình cảm, cũng không phải chỉ nhằm mục đích cứu khổ cứu nạn ở trần gian như người ngoại giáo cầu xin thần linh của họ. Chủ yếu vẫn là xin vì ta biết ta yếu hèn ngu dốt. Chung là xin ơn phù trợ cứu giúp về mặt siêu nhiên cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội, cho Hội Thánh, cho nhân loại đang ở trên bờ vực thẳm của tội lỗi đang bị nguy cơ chìm vào diệt vong ở đời này và hoả ngục đời sau. Khi gặp cơn nguy khốn, ta thường cấu xin sự phù trợ, nhưng ta có nhớ sự nguy hiểm lớn lao nhất là gì không? Là ma quỷ, như sư tử lượn quanh gầm thét đang tìm mồi cắn xé (1P 5,8). Cho nên ta phải ngày đêm cầu nguyện để thoát khỏi nanh vuốt cạm bẫy của nó, những cạm bẫy nhiều khi rất tinh vi, trá hình dưới vỏ của thần ánh sáng, đến nỗi kẻ thành tâm thiện chí cũng phải bị lừa (Mt 24,5). Chính vì nguy hiểm như vậy nên mới cần đến ơn đặc biệt của Đức Mẹ, là Đấng đã đạp dập đầu con rắn dữ.

Đàng khác, chính Ngôi Hai đã lặn ngụp xuống đáy vực thẳm của kiếp con người, uống cạn chén đắng làm người. Mẹ của Ngài cũng cùng chung thân phận ấy. Cho nên ta có đến cùng Mẹ thì không phải với tinh thần “chạy chọt”, muốn được miễn những gian lao khó nhọc của thân phận làm người, song là để được thêm ân sủng, thêm nghị lực mà gánh trọn nhiệm vụ làm người. Nhờ đó ta có thể tuân theo ý Cha trên trời cho trọn, như chính Chúa Giêsu và Đức Mẹ đã làm trọn vẹn ý Cha và có thể trung thành bền đỗ đến cùng, bất chấp mọi gian lao thử thách, doạ dẫm, lường gạt, rũ rê: “Ai muốn theo Tôi hãy từ bỏ mình, vác lấy khổ giá mình mỗi ngày mà theo”.

Chúa không thể mê mị dân, lừa bịp, hứa hẹn thiên đường ở trần gian này bao giờ. Chúa không hề ru ngủ bằng sự an ủi dễ dãi rẻ tiền giả hiệu bao giờ. Theo Chúa không phải là để uống thuốc ngủ an thần hay hút thuốc phiện cho dịu đau. Trái lại, phải chong đèn tỉnh thức, cảnh giác, cầu nguyện phấn đấu liên lỉ để bước vào cửa hẹp, đường dốc. Thánh Phaolô đã dùng hình ảnh của khiên, mộc, áo giáp, chạy đua chiếm kỷ lục… để mô tả cuộc đời Kitô hữu (1Tx 5,8; Lc 9,24-27).

Chúa ban niềm vui và sự bằng an của sự sạch tội trong tâm hồn, chứ không nhằm cho ta được an toàn, miễn dịch, trong lúc nhân loại còn bao nhiêu âu lo, cơ cực vất vả, và Hội Thánh cón gặp bao nhiêu thử thách. Pascal nói: “Đức Kitô quằn quại mãi cho đến tận thế”. Người Kitô hữu ngồi yêu nghỉ sao được, làm sao cho đành. Các vị thánh cũng đi vào vinh hiển như vậy. Thánh Têrêxa Hài Đồng có nói: “Lên trời rồi, tôi sẽ trở lại thế gian mà làm việc lành. Tôi chỉ ngừng hoạt động khi nào đến ngày cánh chung”. Còn đối với Chúa và Đức Mẹ thì đó là điều hiển nhiên. Được Chúa chọn làm thân hữu, được Đức Mẹ chọn làm con yêu, ta nỡ nào xin an nghỉ, xin “miễn dịch”, khi cuộc giao tranh giữa Người Nữ và rắn độc vẫn còn tiếp diễn, và có lẽ ngày càng khốc liệt. Chúa hiện ra với thánh nữ Maria à la Coque để xin đền tạ, an ủi Thánh Tâm Người, Đức Mẹ cũng hiện ra để xin con cái đền tạ an ủi trái tim tân khổ của Mẹ. Đối với ba em nhỏ ở Fatima, ngay từ buổi hiện ra đầu tiên, Đức Mẹ đã đặt ngay vấn đề chủ yếu ấy. Mẹ xin các em:

– Các con có vui lòng chịu hy sinh đau khổ để cứu rỗi các linh hồn không?

Với ba trẻ em 8 tuổi, 13 tuổi mà còn vậy đó. Thật có vẻ ngược đời. Thì ra, lần hạt Mân Côi hay tôn sùng Đức Mẹ, chủ yếu không phải là để ta xin Đức Mẹ ơn này ơn khác, mà trái lại để ta nhận lời Đức Mẹ xin ta, nhờ ta giúp Đức Mẹ trong việc chuyển cầu cho nhân loại đang quá đắm chìm trong tội lỗi, có nguy cơ đi đến diệt vong và hư mất đời đời. Quả vậy, đây không phải là việc tình cảm nữ nhi, mà là việc vô cùng nghiêm trọng. Chẳng khác nào lời hiệu triệu khi đất nước lâm nguy. Bổn phận của con người hiếu thảo khi nhà gặp cơn nguy biến, bổn phận của người công dân tốt khi đất nước gặp đại nạn phải thế nào, ta biết cả rồi. Đây không phải là Đức Mẹ “hù doạ” hay làm tiên tri báo đềm gở, nhưng xem chừng Đức Mẹ ngày càng khẩn thiết như sự đã quá cấp bách, nếu không nói là đã chậm, đã muộn rồi. Ta tính sao đây? Đức Mẹ hiệu triệu, ta trả lời thế nào bây giờ?

Sử liệu về ba trẻ nhỏ ở Fatima ghi lại: hôm ấy ba em cùng đi chăn cừu. Trưa hè nắng gắt, đồng cỏ khô cháy. Quá khát, ba em lại xin một ít nước định chia nhau cho đỡ khát. Nhưng bỗng nhớ lại lời Đức Mẹ xin hãm mình hy sinh cho kẻ có tội, em Lucia lớn nhất nhường cho Phanxicô vì nước chỉ có ít. Phanxicô trả lời:

– Không, em không uống đâu.

– Sao vậy?

– Em muốn chịu khó để cứu rỗi các linh hồn.

– Vậy thì em Giaxintha uống đi.

Em Giaxintha 8 tuổi trả lời:

– Em cũng vậy. Em muốn hy sinh để cứu vớt các linh hồn. Em không uống đâu.

Nhường qua nhường lại, cuối cùng cả ba em đều đồng ý không ai uống cả và nhường nước cho con cừu non.

Em Giaxintha chưa rước lễ lần đầu, chưa rõ chức vụ Giáo hoàng là gì, trước đó chỉ biết vui đùa, vòi quà, làm nũng, thế mà sau khi được gặp Đức Mẹ hiện ra rồi, em đã tiến bộ trên đường nhân đức như vậy đó. Phần chúng ta cứ mỗi chục kinh Mân Côi ta cũng cố xin cho các linh hồn được lên thiên đàng hết thảy. Nhưng ta chỉ biết xin chứ đã biết nhận lời Đức Mẹ xin ta chưa? Ngày thứ bảy đầu tháng, ta làm việc đền tạ Mẫu Tâm. Việc đền tạ ấy có giúp ta sống tinh thần đền tạ một cách thiết thực trong đời sống hằng ngày, vác thánh giá theo Chúa, theo Đức Mẹ chưa? Hay ta lại có ý đồ làm một giờ đền tạ như thế để được “miễn đền tạ” trong những hy sinh chịu khó thiết thực của cuộc sống hằng ngày?

“Vác Thánh Giá” không phải là một mỹ từ trang điểm cho vui cuộc đời, cho đẹp ngôn từ. Thời nay không ai đóng đinh ta vào Thập Giá nữa đâu. Thế nhưng cuộc sống hằng ngày có biết bao Thập Giá “nho nhỏ”. Mưa nắng, đau ốm, hụt xe, trễ tàu, vợ chồng, con cái, thời tiết, hàng xóm… Bao nhiêu việc ấy là bấy nhiêu Thập Giá. Dù chỉ là những Thập Giá nho nhỏ, âm thầm, lặng lẽ không ai biết, không ai khen thưởng. Chỉ riêng Chúa và Đức Mẹ biết. Thế nhưng vẫn là Thập Giá. Ta có vui lòng thuận tình đón nhận, hiến dâng, kết hợp với Thánh Tâm Chúa với Mẫu Tâm Mẹ chưa?

Một tâm hồn được Đức Mẹ viếng thăm và gần như chiếm hữu thì luôn luôn ưu tư, khắc khoải về chính những vấn đề làm cho Đức Mẹ ưu tư khắc khoải: cứu nhân loại khỏi nguy cơ hoả ngục. Em Giaxintha đã được Đức Mẹ tỏ lộ cho thấy hoả ngục. Do đó gần như lúc nào em cũng bị thiêu đốt bởi vấn đề “Làm sao cứu rỗi các linh hồn?”. Đó cũng là ưu tư thắc mắc của Phanxicô Xaviê, của Têrêxa Hài Đồng Giêsu.

Trong đầu óc bé tí của em nhỏ Giaxintha ấy, vấn đề sâu thẳm nhất của nhân loại đã được đặt ra: số mệnh muôn đời của cuộc sống. Em luôn luôn hỏi chị Lucia: Chị ơi, chị có chắc rằng hoả ngục sẽ đời đời không chị? Và sau khi nghe Lucia khẳng định là đời đời, Giaxintha ý thức được tính cách vô cùng quan trọng và khẩn thiết của vấn đề. Thay vì suy tư suông, em đã có một phản ứng của con tim, đầy yêu mến của ý chí rất kiên quyết. Em đi đến một quyết định cụ thể thiết thực: Chị ơi, nhưng nếu chúng ta hy sinh cầu nguyện cho kẻ có tội, Chúa sẽ tha thứ và cứu vớt họ phải không? Thế là em cương quyết sống một đời đền tạ hy sinh bằng những việc làm cụ thể như trong câu chuyện nhịn nước vừa kể trên. Có lẽ đức hy sinh của em rất lớn, rất nhiều, rất nhanh, nên em đã được Chúa và Đức Mẹ rước về Thiên Đàng rất sớm: phải lên Thiên Đàng ta mới hiểu được những hy sinh của em đã đóng góp thế nào cho thế chiến thứ nhất sớm chấm dứt và Châu Âu thoát được nạn thống trị của một chính phủ Đức cường bạo.

Suy gẫm đời Chúa, đời Đức Mẹ, cũng như đời của những linh hồn được hai Đấng chọn lựa cách riêng ta sẽ thấy rằng chiêm niệm Kitô Giáo không phải là để tâm lý được an định, cuộc đời được an nhàn: thoát trần một gót thiên tiên, kệ thiên hạ sống chết mặc bay. Song là sung vào đội quân thiêng liêng chiến đấu cam go chống thần dữ, dưới là cờ vô nhiễm của Đức Mẹ, cùng chiến đấu với Đấng đã đạp dập đầu con rắn dữ và cũng bị rắn dữ cắn vào gót chân, đôi khi còn bị truy kích, phải chạy vào hoang địa ần náu như sách Khải Huyền đã mô tả (Kh 12,1-6; St 3,15).

Sự hiện diện và sự phù trợ của Đức Mẹ là một nguồn an ủi khích lệ, làm cho lòng ta phấn khởi, nhưng cốt yếu là để thêm nghị lực can trường cho cuộc chiến đấu cam go. Mà có lẽ vì cuộc chiến đấu cam go nên Chúa mới phải nhờ đến Đức Mẹ tỏ mình để an ủi ta. Ở đây Đức Mẹ có thể ví được với người nữ y tá mà bác sĩ gửi tới để động viên bệnh nhân sắp phải chịu một cơn giải phẩu hệ trọng. Hay đúng hơn phải ví với bàn tay Mẹ hiền an ủi khuyến khích con cố gắng uống chén thuốc đắng. Cho ngọt thì ai cũng đưa được, nhưng đây là thuốc đắng, đắng lắm nên phải nhờ đến bàn tay người Mẹ, Đức Mẹ rất thương yêu chúng ta, thương đến mức phó dâng Con Một trên thánh giá cho chúng ta được cứu rỗi. Thế nhưng Đức Mẹ không cưng chiều có hại cho ta, là “Đấng cực khôn cực ngoan” theo kiểu khôn ngoan của Thiên Chúa. Đức Mẹ quá biết thuốc đắng mới đã tật. Thế nên có thương thì vỗ về, an ủi, quạt cho mát, lau mồ hôi cho bớt nóng bức, chứ Đức Mẹ không bao giờ làm trái ý vị lương y mà cất bớt chén đắng ấy đâu. Đó cũng là điều đã làm trọn cuộc khổ nạn của Chúa. Mẹ không xin Chúa Cha cất Thánh Giá cho Chúa Giêsu, Mẹ chỉ theo chân Chúa an ủi đôi phần (mà chưa chắc! Trong cách ấy có khi thấy nhau lại chỉ càng thêm cực lòng) có thể nói rằng Đức Mẹ chỉ khuyên lơn: “Mẹ biết là đắng Mẹ cũng chẳng vui gì! Nhưng vì cơn bệnh khá nặng, cần phải thế mới lành con ạ! Tin tưởng mà uống đi con! Uống cho hết đừng bỏ phí một giọt nào, vì đó là thuốc quý”.

Đức Mẹ là dịu hiền từ ái và cũng là “dũng lực” phi thường, nên Đức Mẹ cũng muốn cho con cái mình nên kiên cường dũng lực, vác Thánh Giá can trường bền đỗ. Dũng lực của Đức Mẹ khác với dũng lực đô vật của Hercule gồng mình là bắp thịt nổi lên cuồn cuộn, nghiến răng đội quả đất nâng cao lên khỏi đầu như vận động viên biểu diễn để thiên hạ vỗ tay hoan hô nhiệt liệt! Dũng lực của Đức Mẹ khác hẳn. Mẹ đã âm thầm lặng lẽ mang trong lòng mình cả Ngôi Hai Thiên Chúa mà không thổ lộ với ai, ngay cả với Giuse. Có lẽ dũng lực của Đức Mẹ được diễn tả rất đúng nơi bức tượng “Nữ Vương Hoà Bình” hai tay nhẹ nhàng âu yếm nâng quả cầu có cắm cây Thánh Giá, ngước mắt lên trời thầm lặng nguyện cầu, đưa ngang tầm trái tim của Mẹ. Dũng lực của Mẹ là dũng lực của ngôi sao bắc đẩu đứng yên một chỗ làm trục cho cả địa cầu xoay vần, làm đèn pha soi đường chỉ lối cho bao thuyền bè vượt trùng dương sóng gió. Dũng lực ấy là dũng lực của tình yêu dâng hiến chứ không phải là quyền hành xâm lấn thống trị. Vì chỉ có tình yêu mới có năng lực hoán cải được lòng người.

Chiến thắng của Đức Mẹ là chiến thắng của Thập Giá: lấy khiêm nhượng đánh gục kiêu căng, lấy phục vụ đánh gục thống trị, lấy trao ban đánh gục chiếm hữu, lấy tha thứ đánh gục hận thù, lấy chân thành đánh gục dâm bôn, lấy “chịu chết” đánh “sát nhân”. Đức Mẹ là Đấng “có tài có phép”, nhưng tài phép của Đức Mẹ không phải để cho con cái sử dụng như kiểu Phàn Lê Huê sử dụng “tài phép” của “La Sơn Thánh Mẫu” để chiến thắng và chiếm đoạt trái tim của Tiết Đinh San bằng các bửu bối.

Tài phép của Đức Mẹ là tài phép của tình yêu, như bà mẹ của Côrolia đã ngăn chặn được người con hung hãn của bà để ông lui binh thôi không tiến đánh phá huỷ thành Rôma. Dũng lực của Đức Mẹ không phải là của kẻ cầm gươm đâm người khác, mà là của người Mẹ hiền im lặng để cho lưỡi gươm đâm thấu lòng mình. Mẹ đã ngước mắt nhìn trái tim người Con Một yêu dấu bị lưỡi đòng đâm thủng, chảy nước và máu, để cho nhân loại được cứu chuộc mà không một lời than thở kêu xin. Thi sĩ Alfred de Vigni có câu thơ lừng danh: “Cầu xin, than thở, khóc lóc là hèn nhát”. Không biết khi viết câu ấy, ông có liên tưởng đến sự can trường tuyệt vời của Đức Mẹ không, vì Đức Mẹ quả là dũng lực siêu phàm: Mẹ đã theo Con trên đường khổ nạn, đã đứng lặng yên dưới chân Thập Giá, ngước mắt lên trời thầm lặng nguyện cầu cho đến khi người ta hạ xác Con xuống, Mẹ đã ẳm vào lòng và trao lại cho người ta tẩm liệm vội vàng vào huyệt đá, rồi lại một mình âm thầm lặng lẽ dưới bóng đêm buông xuống trên ngày thứ sáu tuần thánh đầu tiên ấy.

Kìa Bà nào đang tiến lên mà hùng dũng như đạo binh? (Dc 6,10). Đạo binh đây là đạo binh những tâm hồn được thông dự vào ơn vô nhiễm bằng một đời sống thánh thiện và được chung uống chén đắng với Trái Tim tân khổ trong mầu nhiệm Thập Giá. Cây Thánh Giá với hai trái tim treo trên cao là trái tim bị lưỡi đòng đâm thâu, máu và nước tuôn chảy, đứng bên dưới Mẫu Tâm cũng bị lưỡi gươm vô hình đâm thâu nước mắt tràn đầy: đó là cờ lệnh của của vua hoà bình và nữ vương hoà bình. Đạo quân đi theo lá cờ ấy không dùng võ lực, mưu mô, danh lợi, mà chỉ biết có yêu mến, hiến dâng, trao ban, phục vụ, một cách âm thầm lặng lẽ như những mạch nước ngầm nuôi sống cỏ cây muôn vật mà chẳng ai trông thấy.

“Nữ Vương trời đất” ngự trị bằng khí giới tình yêu, cho nên biểu hiệu là một quả tim Chúa Giêsu Vua vũ trụ cũng vậy: vương quyền cũng biểu hiệu bằng một quả tim. Lý do rất đơn giản: vì Thiên Chúa là tình yêu.

Nước của Vua tình yêu và của Nữ Vương tình yêu tất nhiên cũng là tình yêu. Tình yêu ấy đối lập, hay đúng hơn, bao trùm và trung hoà mọi hận thù, đố kỵ, ghen tương, tranh chấp không bằng cách nào khác hơn là hiến dâng trọn vẹn, để mình ra như không.

Trong nước tình yêu ấy, mọi người đều được kêu gọi góp phần. Chính Chúa Giêsu và Đức Mẹ là những người đầu tiên Chúa Cha mời gọi cộng tác trong kế đồ cứu chuộc. Rồi tất cả các Tông Đồ, Tiên Tri, Tử Đạo, và bất cứ ai mang danh Kitô hữu, nghĩa là bạn hữu của Đức Kitô, dù thuộc tầng lớp nào, lứa tuổi nào đều được mời thông dự vào ơn thiên triệu ấy. Em Giaxintha mới 8 tuổi hay bà Eve Lavallière mãi gần 50 tuổi mới ăn năn trở lại sau một đời truỵ lạc xa hoa, cũng đều có một nhiệm vụ phải chu toàn. Tựa như trong một bản hoà âm, mỗi nhạc khí phải thể hiện phần mình thật đúng, thật tốt, bản hoà âm mới đạt yêu cầu, sai một nốt là bản hoà âm giảm hẳn giá trị.

Trong bản hoà âm cứu độ, chiếc đũa điều khiển chính là cây Thánh Giá, chuỗi hạt Mân Côi cũng là cách giúp ta ghi lại và ghi sâu bản hoà âm cứu độ ấy vào lòng, biến thành chất sống của đời ta, để ta trình tấu phần của mình thật tuyệt diệu, đem lại ơn cứu độ cho loài người tội lỗi đau thương.

Với những suy nghĩ trên đây, ta thấy con đường Đức Mẹ đã đi và đang mời gọi ta nối gót để góp phần chiến thắng tội lỗi và con đường tân khổ vô nhiễm. Nói đi nói lại điều ấy thì có vẻ như cái nhìn của ta quá nhiệm mầu, ngậm ngùi bi đát, nhưng thực ra dưới bóng cờ của Đức Mẹ ta có quyền lạc quan hy vọng. Bởi lẽ mầu nhiệm vô nhiễm gắn liền với mầu nhiệm mông triệu. Nếu với mầu nhiệm tân khổ vô nhiễm nơi Thập Giá Đức Kitô và việc Đức Mẹ được nhận về trời cả cơ thể, sự chết đã hoàn toàn thua trận. Chính vì thế, ngay giữa lúc suy ngắm năm sự Thương ta vẫn không ngớt reo lên: “Kính mừng”, “Bà có phúc”, “Con lòng Bà có phúc”.

Người con có phúc đó trước hết là Đức Giêsu Kitô trưởng tử, tiếp đến là hàng triệu triệu anh em và là chi thể của Ngài, tức là mỗi chúng ta, đã được cùng một Mẹ sinh ra trong đời sống thiêng liêng là Hội Thánh, mà Đức Mẹ vừa là trưởng nữ vừa là hiện thân.

Hạnh phúc ấy giúp thấy rõ Kitô Giáo là một Tin Mừng. Cứu độ là đem lại sự sống thật, hạnh phúc thật cho con người. Trong suốt chuỗi Mân Côi, ngay lúc ngắm năm sự Thương bản nhạc đệm kèm theo vẫn luôn luôn là bài “Magnificat” ca tụng lòng thương xót đến muôn đời của Thiên Chúa. Cây Thánh Giá chỉ là con đường đưa đến phúc thật, cho nên ngay trong giờ tiệc ly, Chúa đã hứa ban: “Thầy ban niềm vui và sự bình an cho các con”. Và lời nguyện tư tế kết thúc bữa tiệc ly ấy là một bài ca khải hoàn ca ngợi sự chiến thắng, ca ngợi sự hoàn thành kế đồ cứu chuộc: Danh Cha cả sáng, CON LOÀI NGƯỜI được tôn vinh, môn đồ được nên một…

Chuỗi hạt Mân Côi cũng kết thúc bằng năm sự Mừng, sau khi đã khởi sự bằng năm sự Vui, năm sự Thương chỉ là phần quá độ từ Vui bước sang Mừng: sự Mừng mới là vĩnh cửu. Nắng mưa sẽ không còn, nuớc mắt sẽ được lau khô, hoa nở từ trời, nước hằng sống, cây trường sinh sẽ mãi mãi nuôi sống con người. Chúa Giêsu và Đức Mẹ đã lên trời vinh hiển, dọn chỗ cho ta. Mai sau hai Đấng sẽ đón ta về quê thật.

Thật ra Nước Trời đã đến, đã khai mạc ở trần gian, mà Hội Thánh là hình bóng, là biểu tượng và cũng là nhiệm tích thể hiện một cách kín nhiệm nhưng thực sự. Với đôi mắt phàm trần ta không thể thấy được, nhưng thực ra trước mắt ta, mỗi giây phút biết bao cuộc sống thiêng liêng được sinh ra từ giếng rửa tội, bao linh hồn được tái sinh qua toà giải tội, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thể, bao cuộc hôn phối được kết giao làm biểu tượng cho sự phối hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh, bao con người được nâng lên hàng tư tế, bao linh hồn được đón nhận vào Thiên Đàng hoặc trực tiếp từ đời này hoặc đã đi qua luyện ngục. Thế gian với máu, mồ hôi và nước mắt sẽ qua đi, nhưng những thực tế kể trên sẽ còn mãi.

Với bài Magnificat làm nhạc đệm, chuỗi hạt Mân Côi giúp ta biết lấy cái nhìn Đức tin chọc thủng bức màn đen tối của trần gian để thấy cái hiện thực huy hoàng của Nước Trời đang được xây dựng, mặc cho thế gian và ma quỷ quấy phá: “Các con đừng sợ. Trái Tim Mẹ sẽ thắng”. Mà thực ra là đã thắng, với hai mầu nhiệm Vô nhiễm và Mông triệu, với hai tiếng “XIN VÂNG” phá sạch sự từ chối phản loạn của hai ông bà nguyên tổ.

Do đó, mỗi khi lần hạt Mân Côi cũng như tham dự phụng vụ, nhất là thánh lễ, là ta đã nếm hương vị thấy trước của nước Thiên Đàng một cách ẩn kín nhưng có thật ngay ở trần gian này. Cả đến việc lãnh ơn tha tội ở toà cáo giải cũng vậy. Mà ở Thiên Đàng thì không còn ai xin ai, không còn ai nhờ ai, không còn ai phải cùng ai gánh vác cái gì nữa, mà chỉ còn việc yêu mến nhau. Y như Ba Ngôi Thiên Chúa yêu mến nhau từ thuở muôn đời. Bởi vì tất cả đã viên mãm, hoàn tất rồi. Cho nên nếu chuỗi hạt Mân Côi đã là một phần nào hình ảnh nước Thiên Đàng, thì đôi khi chúng ta cũng tạm quên đi tất cả, chỉ đến với Mẹ cho có Mẹ có con, chẳng cần nói gì, im lặng thôi cũng đủ. Bởi vì yêu nhau thì được nhìn nhau, được gặp nhau, được có nhau là mãn nguyện rồi. Ta đến với Mẹ là Mẹ tuyệt vời vinh hiển. Ta vui mừng vì có Mẹ bên ta. Cũng như ta đến với Chúa vì có Chúa, vì Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, và lấy đó làm hạnh phúc. Thế thôi! Hạnh phúc Thiên Đàng mai sau cũng chỉ có vậy.

Đó là đỉnh cao của nguyện cầu: đi ra khỏi mọi sự, khỏi chính mình, chỉ cần biết có Chúa. Hoàn toàn vô cầu. Chính Thiên Chúa đã dựng nên vạn vật và cứu chuộc muôn loài một cách hoàn toàn vô cầu (vì có thêm gì cho Chúa đâu), thì ta cũng phải trở nên vô cầu để xứng đáng là hình ảnh của Chúa. Cũng chính vì thế mà Hội Thánh kết thúc mỗi chục kinh bằng: “Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng, và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen”! Qua các bài giáo lý, ta đã biết Thiên Chúa là: đầu cội rễ mọi sự và cùng sau hết mọi loài. Lần hạt Mân Côi cũng như bất cứ làm một việc gì: ăn, ngủ, nghỉ, chơi, lao động, hôn phối, sinh con đẻ cái… thì như lời thánh Phaolô dạy, đều là để tôn vinh Danh Chúa (Cr 3,17). Đơn giản đến tột cùng! Cho nên có lẽ cách đến cùng Đức Mẹ cao nhất là đến để cùng Ngài dâng lên lời “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”. Đó là cùng đích cuối cùng. Đó là ta tập sự làm cái việc mà ta hy vọng nhờ ơn Chúa và Đức Mẹ, ta sẽ được làm mãi mãi muôn đời muôn kiếp, Amen; đó là niềm vui, sự bình an Chúa đã hứa mà thế gian không đem lại được, cũng không cướp mất được (Ga 14,27). Do đó mới gọi là Tin Mừng.

Đến đây thì người đọc cũng như người viết sẽ bỡ ngỡ, thấy như mình luẩn quẩn đi vòng quanh. Đọc cho lắm, viết cho nhiều rồi kết thúc cũng chỉ là “mến Chúa hết sức, hết trí khôn, trên hết mọi sự (và nhất là trên bản thân mình)”. Đơn sơ quá chừng! Mà chính vì đơn sơ như vậy cho nên nhiều kẻ thông thái lại không thấy được, còn một em bé thôn dã 8 tuổi, chưa biết đọc như Giaxintha vừa được Đức Mẹ chỉ cho vài lời là hiểu ngay. Em đã hiểu bằng cả con tim như nhuốm bụi đời, cả bụi văn minh tài giỏi và đưa ngay vào cuộc sống thiết thực một cách triệt để, đến nỗi chỉ sau hai năm đã được Chúa và Đức Mẹ cho là trọn vẹn nên sớm rước về nơi vinh hiển.

Chuỗi hạt Mân Côi và đời sống chiêm niệm quả không có gì tương phản, trái lại, rất phù hợp với nhau. Bởi lẽ, 15 sự kiện của chuỗi Mân Côi chỉ là tóm tắt diễn trình tình yêu cứu chuộc đang nung nấu Thánh Tâm Chúa và Trái Tim Đức Mẹ Maria. Những ai biết ném trái tim mình vào lò lửa yêu mến ấy như một hạt hương trầm sẽ toả hương thơm bay lên trước toà Thiên Chúa Cha từ ái. Thiên Chúa sẽ lấy làm đẹp lòng mà cúi xuống ban muôn vàn ơn phúc lạ, mai sau lên Thiên Đàng mới rõ được ơn phúc ấy quý giá chùng nào! Và ngay ở đời này cũng đã được sống trong niềm vui sâu xa kín đáo của một tâm hồn đã thắng được ma quỷ thế gian và thắng được chính mình, để sống trong tình yêu thuần khiết.

PHẦN VI: Ý NGHĨA CUỘC ĐỜI TRONG CHUỖI HẠT MÂN CÔI 

Việc lần hạt Mân Côi cuối cùng sẽ đưa ta đến chỗ đem chính mầu nhiệm cứu chuộc lồng vào đời sống thực của chúng ta, và đem đời sống ta tháp vào mầu nhiệm cứu chuộc nhờ sự trung gian của Đức Mẹ. Ta đặt tất cả vào trong tay Đức Mẹ, nhờ Đức Mẹ điểm tô bằng chính nhân đức và tình yêu của Trái Tim Đức Mẹ trước khi dâng lên Thiên Chúa. Và nhờ đó, Đức Mẹ ban xuống cho ta, cho Hội Thánh, cho nhân loại muôn vàn ơn phúc về mọi phương diện. Bức tượng Nữ Vương Hoà Bình, Đức Mẹ tay nâng một quả địa cầu có cắm cây Thánh Giá, đưa ngang tầm ngực, ngước mắt lên trời, nguyện cầu trong im lặng. Quả cầu ấy, theo chính lời giải thích của chính Thánh nữ Catherine Labouré là tượng trưng cho mỗi tâm hồn trong Hội Thánh và cả nhân loại được Đức Mẹ nâng lên ngang ngực như lồng vào Trái Tim Mẹ, như muốn đùm bọc cưu mang cả đất trời trong tình yêu của mình để đem lại cho tất cả một ý nghĩa cao sâu mà đằm thắm, hiền dịu tuyệt vời.

Ta có thể thấy rõ ý nghĩa ấy khi xét tất cả mọi sự dưới một khía cạnh quan trọng và cơ bản của trần gian này: thời gian tính. Thời gian tính đó là chiều kích làm cho cuộc đời này có một cái gì như mong manh tạm bợ, thậm chí có triết gia coi là hư ảo.

Lý trí cũng như cảm tình của bao triết gia, văn nhân nghệ sĩ cũng như của tất cả mọi người đều ưu tư khắc khoải trước dòng thời gian biền biệt trôi đi như lôi cuốn tất cả vào vực thẳm của hư vô. Ai trong chúng ta lại không có bâng khuâng nhớ nhung hay hối tiếc về quá khứ? Hay hồi hộp lo sợ, khát khao, nôn nóng chờ tương lai? Hay là chán chường hoặc đam mê bám víu vào hiện tại?

Sâu xa hơn nữa là những suy tư có tính cách hữu thể học. Quá khứ nay không còn nữa, vậy nó ở đâu? Phải chăng mọi sự đã qua là đã hoàn toàn bị hư vô hoá? Lòng trung nghĩa của Nhạc Phi, Nguyễn Trãi, chẳng lẽ lại là hư vô? Nhưng nếu còn thì ở đâu? Và tương lai? Lúc chưa có thì chẳng lẽ lại không là gì cả? Vì từ không làm sao ta có được? Mà nếu có thì ở đâu? Còn hiện tại thì chẳng qua là một chớp mắt chuồi từ cái chưa có (hay không có) của tương lai để rồi lại rơi vào cái không còn nữa của quá khứ. Thành ra phải chăng hiện tại có mà cũng như không? Tóm lại phải chăng tất cả chỉ là hư vô?

Thời gian như mạch nước ngầm, làm xói mòn sụp đổ tất cả, lôi cuốn vào hố thẳm của hư vô. Mọi sự vì vậy như chợt có chợt không, chẳng khác gì ảo ảnh.

Đó là cái nhìn tự nhiên, suy nghĩ tự nhiên của lý trí con người và cảm xúc tự nhiên của tình cảm con người. Thế nhưng lấy ánh sáng toả ra từ 15 sự VUI-THƯƠNG-MỪNG là 3 chu kỳ dọi lên 3 nhịp: hiện tại, quá khứ và tương lai, rồi đem lồng vào 3 nhân đức Tin-Cậy-Mến ta sẽ thấy Mầu nhiệm cứu độ chính là cái chìa khoá thần diệu giúp ta giải mở được cái kỳ bí của thời gian mà trí tuệ, tình cảm tự nhiên của con người như hoàn toàn bất lực. Mầu nhiệm cứu độ với 3 chu kỳ: VUI-THƯƠNG-MỪNG; thời gian với 3 nhịp: quá khứ, hiện tại, tương lai; tâm hồn tín hữu với 3 nhân đức: Tin-Cậy-Mến. Đó là thực tại, mỗi thực tại có 3 nhịp, như lồng vào nhau trong một thể liên hoàn, nhuần nhuyễn, kết hợp, tương nhập, tạo thành một cảnh vực của tâm linh, đem lại cho nhân sinh và vũ trụ cái ý nghĩa đích thực và sâu xa cao quý của nó.

1.       HIỆN TẠI-VUI-TIN

Hiện tại đôi khi thật êm đềm, dường như không có vấn đề, nhưng nhiều khi lại khiến ta hoặc say mê cuồng nghiệt hoặc ngược lại muốn chạy trốn vì thấy ê chề mệt mỏi hay vì phải đối diện với những chọn lựa gay go. Nhưng mỗi giây phút hiện tại đều ngầm mang theo một lời mời gọi của Thiên Chúa, trước những vấn đề lớn nhỏ khác nhau, đặt ra trước sự chọn lựa giữa chối từ hay chấp nhận trong đức tin.

Mỗi chọn lựa trong hiện tại đều có ảnh hưởng quyết liệt trong tương lai (và cả trên quá khứ nữa). Có thể nói mỗi giây phút hiện tại là một cuộc truyền tin, mang lại ý Chúa mời gọi ta, nên ta phải biết lấy ánh sáng của 5 sự Vui hoặc lấy tâm tình và thái độ của Đức Mẹ đón nhận những gì xảy đến, cả những điều bề ngoài có vẻ không may mắn cũng thuận tình “xin vâng”. Bởi vì ta biết rằng trong căn bản, mọi sự xảy đến với ta đều hàm chứa ý Chúa nhiệm mầu. Mà ý Chúa bao giờ cũng tốt lành, là ân sủng phát xuất từ tình yêu sáng tạo và cứu độ. Vì với những ai yêu mến Thiên Chúa, thì Người đồng công cộng tác, biến mọi sự nên lành (Rm 8,28). Do đó, giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào, thời đại nào thì “khi này” – giây phút hiện tại – cũng là ân sủng và việc gì xảy đến cho ta, cho nhân loại, cho vũ trụ cũng nằm trong kế độ tình yêu sáng tạo và cứu độ. Chính vì thế Hội Thánh vẫn thường gọi tên các năm là năm “ân sủng”: năm ân sủng 1970, 1980, 1990…

2.       QUÁ KHỨ-THƯƠNG-MẾN

Cái “khi nay” của giây phút hiện tại sẽ qua đi, làm cho ta tiếc nuối là vì do lòng tiếc nuối, bám víu, không muốn cho thời gian cướp đi chôn vào mồ quá khứ. Đó là chuyện thường tình. Thế nhưng, là Kitô hữu, ta sẽ nhớ đến tâm tình và thái độ của Đức Mẹ khi đứng dưới chân Thánh Giá. Bao nhiêu kỷ niệm êm đềm: Belem, Nazarét, 30 năm sống an vui ấm cúng tình Mẹ Con, tất cả giờ đây như bị xoá nhoà với cuộc tử nạn và táng xác. Quá khứ là nấm mồ chôn tất cả. Với một lòng mến thiết tha, ta kết hợp với Chúa và Đức Mẹ trên đường Thánh Giá trong 5 sự Thương, để cùng hiến dâng mọi sự lên Chúa Cha. Ta có níu kéo, bám giữ thì thời gian cũng cướp mất nhưng nếu ta hiến dâng, từ bỏ thì tất cả (kể cả tội lỗi) lại có thể biến thành của lễ, hiến dâng lên thờ phượng Chúa. Tất cả sẽ được tích trữ vào kho lẫm muôn đời sau khi được thanh lọc nhờ giá máu Chúa Giêsu và nước mắt của Đức Mẹ.

Nước mắt, mồ hôi và máu của con người đổ ra được hoà nhập với nước mắt, mồ hôi và máu của Con Chiên, sẽ trở nên mạch nước rửa sạch và nuôi dưỡng. Quá khứ là kho lẫm chuẩn bị cho tương lai, cái tương lai trần thế này và chính cái tương lai tuyệt đối mai sau.

3.       TƯƠNG LAI-MỪNG-CẬY

Với chuỗi hạt Mân Côi, tương lai không còn là cái gì bấp bênh đe doạ, mà là con đường để hướng về, dẫn tới tương lai tuyệt đối, là Nước Trời vĩnh cửu, được phác hoạ tiên báo, dọn sẵn và bảo đảm qua 5 sự Mừng với hình ảnh Đức Mẹ vinh hiển. Trên bước đường tương lai ấy, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống để soi đường, mở lối cho những tâm hồn biết mở rộng, biết hướng về ngày mai trong đức cậy.

“Hãy vững lòng, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).

“Thầy sẽ gửi Đấng an ủi đến cho các con” (Ga 16,7).

Nghĩa là Thầy sẽ gửi Thánh Thần đến dẫn dắt các con, đưa các con thuận buồm xuôi gió, đến bến bình an phúc lạc, mặc cho biển trần gian phong ba bão táp đến đâu.

Được lồng vào Mầu nhiệm cứu độ thời gian không còn là cái gì lơ lửng, chảy xuôi, đổ rơi vào vực thẳm hư vô, nhưng đã trở nên như một dải lụa mà từ muôn đời đã phát xuất từ Thiên Chúa hằng hữu, để cho ta thêu hoa dệt gấm từng giây phút, đón nhận trong tin cậy mến và rồi sau đó được cuốn lại đem vào kho lẫm muôn đời.

Thời gian chỉ là cái khung cửi Chúa lập ra để cho ta thêu dệt tấm lụa đời của ta theo những điều chỉ dẫn của Thiên Chúa, dưới sự dạy dỗ của Đức Mẹ. Mỗi giây phút là một mũi kim đường chỉ, tạo nên những hoa văn tuyệt diệu mà ngày chung thẩm sẽ được dàn trải ra dưới ánh sáng của mặt trời vĩnh cửu là chính Con Thiên Chúa. Và tấm lụa đời ta dệt nên sẽ là tấm áo cưới được bàn tay Đức Mẹ khoác lên linh hồn ta, trước khi Ngài dẫn ta vào dự tiệc liên hoan.

Cuộc đời của ta dù có vẻ tầm thường hay hẩm hiu gian khổ đến đâu đi nữa, nếu ta biết thông dự vào mầu nhiệm cứu độ được rút gọn nơi chuỗi hạt Mân Côi, nó sẽ như một vườn ươm để Thiên Chúa gieo vãi, là nơi là nơi mà hạt lúa đang hẩm nát đi để tiến tới mùa gặt huy hoàng. Ta cũng có thể ví cuộc đời như một cuộc hành hương, trẩy hội tiến về Thành thánh Giêrusalem muôn thuở. Lời kinh Kính Mừng khác nào như một khúc hành ca theo nhịp bước ta đi, dưới sự dìu dắt và phù trợ của Đức Mẹ. Khúc hành ca ấy căn bản là lời tán tạ của Đức Mẹ trong bài Magnificat khi Đức Mẹ còn mang Chúa Giêsu trong lòng băng tuyết của Ngài, cũng như Hội Thánh mang chứa tất cả con cái dân Chúa trong lòng để sinh ra trong Nước Trời muôn thuở, nơi cõi sống thực muôn đời.

Như vậy, ngoại trừ tội lỗi, tất cả sẽ được bao hàm, phục hồi, thâu gọn trong Đức Kitô (récapituler) qua bàn tay thâu lượm chắt chiu của Đức Mẹ. Từ một nụ hoa chớm nở, cho đến một con chim non, một con bê, một em bé chào đời, cho đến nền văn hoá khai sinh ló dạng. Không một sự sinh thành nào trong bình diện tốt đẹp của nó, mà không phảng phất hình bóng Hài Nhi sinh ra chào đời trong máng cỏ, dưới cái nhìn trìu mến tôn kính của Đức Mẹ; từ một con sâu bị chà đạp (Tv 21 có gợi lên hình ảnh con sâu bị chà đạp), đến những vụ án oan khiên qua tai nạn giai thông, những cuộc chiến tranh tàn khốc… cho đến những sự tiêu vong của các triều đại, của các nền văn hoá, không một cực nhọc, vất vả, tủi nhục, tan vỡ nào mà không in nét đau thương của Đấng chịu khổ hình Thập giá trên Núi Sọ và của Mẹ Ngài cùng đứng san chia uống cạn chén đắng trong chiều thứ sáu Tử nạn. Và cuối cùng, từ một niềm vui của một em bé làm đúng bài toán cộng, đến những thành tựu văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội trong những yếu tố tích cực của chúng, không một thành công nào, hay một thắng lợi công chính nào mà không được chiếu rạng trong sự rực rỡ huy hoàng của hình ảnh Đức Mẹ lên trời vinh hiển. Vả chăng những thành đạt ấy chỉ có ý nghĩa nếu được xây dựng trên mầu nhiệm Đức Mẹ lên trời, bằng không thì dù huy hoàng rực rỡ mấy cũng chẳng khác gì các tia chớp loé lên rồi vụt tắt trong đêm dày của vũ trụ hỗn mang theo quy luật sinh trụ dị diệt của muôn loài thụ tạo.

Thêm vào đó là hình ảnh Đức Nữ Vô Nhiễm trinh tuyết vẹn tuyền khác nào như đoá hoa sen vươn lên khỏi bùn nhơ tội lỗi của trần gian, trong đó có chính lòng ta còn hoen ố bụi trần, làm cho ta có nơi ngước mắt trông lên, để dần dần chúng ta cũng đượm màu trắng vô ngần và hương thơm ngào ngạt thoát khỏi ô uế, bùn lầy hôi tanh của thế tục cũng như chính lòng ta.

Hai tín điều mà Hội Thánh đã công bố: Vô Nhiễm và Mông Triệu quả là hợp thời như liều thuốc hồi sinh đem lại hy vọng cho một thế giới bên ngoài có vẻ hào nhoáng phồn vinh, nhưng bên trong thì thối tha mục rữa, hầu như tuyệt vọng không lối thoát. Hội Thánh như nêu cao lá cờ hy vọng, kêu gọi nhân loại tin tưởng vươn lên với niềm vui chiến thắng. Chẳng những Ngôi Hai làm người đã thoát khỏi nanh vuốt của nó mà một người phụ nữ thuần tuý như bất cứ con người nào trong hàng ngũ Ađam Eva, cũng đã thoát khỏi xiềng xích của nó là tội lỗi, nhờ ơn Vô Nhiễm; và thoát khỏi đau khổ chết chóc với ơn Mông Triệu.

Chuỗi hạt Mân Côi chỉ là nhắc lại mạc khải của Thiên Chúa, vén màn lên cho ta thấy ý nhiệm của tình yêu sáng tạo và cứu chuộc để ta biết rằng, xuyên qua vui buồn, sướng khổ, vinh nhục, thăng trầm của thế sự nhân tình, xuyên qua tiến hoá của vũ trụ, thực tại căn bản là Nước Trời đang được kiến tạo. Qua sự thuận tình của đón nhận của Đức Maria và được sự truyền tiếp của Hội Thánh, Ngôi Hai Thiên Chúa đã mang lấy nhục thể trở nên bào thai trong lòng Đức Mẹ cũng như trở nên của ăn nuôi sống trong Bí Tích Thánh Thể. Ngôi Hai đã ngụp lặn cùng đáy sâu của nhân loại là vũ trụ. Ngài đã dùng cây Thánh Giá kéo tất cả xoay ngược lại cái chiều xuống dốc do tội nguyên tổ gây ra, chuyển hướng kéo lên, đưa trở về trong lòng Thiên Chúa Cha từ ái, với sự hiệp thông của Thánh Thần và sự cộng tác của Đức Mẹ và tất cả những ai được chọn làm con Thiên Chúa trong lòng Hội Thánh, Đức Kitô thực hiện kế đồ phục hồi tất cả mọi sự trong chính mình Ngài là tảng đá góc tường của đền thờ Thiên Chúa là Hội Thánh. Cuối cùng vũ trụ sẽ được đi vào vinh hiển trong ngày mà Đức Kitô sẽ đặt mọi sự trong Thiên Chúa Cha từ ái.

Chúng ta sẽ thấy rằng cõi đời này là một cuộc xuất hành của dân Chúa, từng đội ngũ nối tiếp nhau vượt qua Biển Đỏ nhờ phép Rửa, đi qua sa mạc là trần gian để tiến vào Đất Hứa là Nước Trời. Trong đoàn hành hương, thay vì hòm bia Thiên Chúa chứa đựng manna, thì có bí tích Thánh Thể cùng đi, kèm theo hai ca đoàn: một bên là giờ kinh Phụng Vụ với 150 thánh vịnh, một bên là kinh Mân Côi với 150 kinh Kính Mừng. Hai ca đoàn ấy chủ yếu hợp lòng cùng Đức Mẹ dâng lên lời tán tạ Thiên Chúa qua bài tán tụng “Magnificat” trong giờ kinh Phụng Vụ ban chiều và đó cũng còn có thể xem là đường chỉ xuyên qua 150 hạt chuỗi kinh Mân Côi.

150 thánh vịnh là do Chúa Thánh Thần khởi hứng. Chuỗi hạt Mân Côi là do Đức Mẹ truyền ban. Cả hai hoà lại trong bài Magnificat, kết hợp với thánh lễ tạ ơn, mà dân riêng Chúa hằng ngày không ngớt dâng lên trước toà Thiên Chúa, chu toàn nhiệm vụ cốt yếu của thụ tạo đối với Đấng tạo dựng muôn trùng chí thánh, mà cũng là Chúa Cha vô cùng từ ái muôn đời đầy lòng thương xót; thờ lạy, cảm tạ, đền bồi, cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Kitô, qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ, để phá sạch tội phản loạn kiêu căng bạc tình của nguyên tổ. Nhờ đó mà mọi sự được tái lập trong trật tự hài hoà của ban nhạc tình yêu, xuất phát từ mầu nhiệm Ba Ngôi muôn đời dìu dắt bản thể. Nhờ bàn tay của Đức Mẹ nâng lên gần tầm Trái Tim Tân Khổ vẹn sạch, tất cả như một ống thu lôi đón hứng lấy lửa diêm sinh mà lẽ ra Thiên Chúa đã trút đổ xuống thành Sôđôma khổng lồ này là thế gian đang ngụp lặn trong hố sâu tội lỗi tràn ngập quá đầu…

Lần hạt Mân Côi là dám dấn thân vào đoàn quân chí nguyện của chiến dịch tình yêu, do Đức Mẹ là Nữ Vương trời đất hiệu triệu. Mẹ gọi chúng ta thưa “có con đây” và can trường tiến lên con đường hẹp của Thánh Giá là con đường dẫn vào Đất Hứa muôn đời vinh hiển, nơi mà hiện nay Chúa Giêsu và Đức Mẹ đã đi vào, dọn chỗ cho ta, đến ngày cánh chung Chúa trở lại đón ta vào dự tiệc cưới Con Chiên hoan lạc muôn đời. Amen.

PHẦN VII: MỘT VÍ DỤ GỢI Ý VỀ CÁCH NGẮM MỘT MẦU NHIỆM TRONG CHUỖI HẠT MÂN CÔI 

Trong phần này, xin gợi ý một cách ngắm các mầu nhiệm để áp dụng.

Trước hết xin lưu ý rằng: trong việc chiêm niệm, điều quan trọng không phải là biết nhiều chuyện, nhưng là cảm mến Thiên Chúa cách sâu sắc. Việc rảo qua các hình ảnh này đến tâm tình kia một cách hời hợt không làm ta thoả lòng bằng việc đắm chìm trong một hình ảnh, một tâm tình có sức giúp ta cảm nhận và sống tình yêu Thiên Chúa. Chỉ cần một khía cạnh nào đó thôi. Có lẽ chỉ cần lấy một điều ấy làm trọng tâm cho đời sống tâm linh của mình cũng đủ.

Ví dụ: Suốt cuộc đời, Đức hồng y Bérulle, hình như giờ nguyện ngắm nào cũng chỉ có việc thờ lạy Ngôi Hai ngự trong lòng Trinh nữ Maria.

Pascal, có thể là suốt đời chỉ chiêm niệm Chúa Giêsu hấp hối trong vườn Cây Dầu.

Gabriel Adolorata suốt đời như kết hợp với Trái Tim tân khổ của Đức Mẹ đứng dưới chân Thập Giá.

Magaritta à la Coque suốt đời thờ lạy Thánh Tâm Chúa bị lưỡi đòng đâm thâu qua.

Têrêsa Hài Đồng, hình như cuối đời thờ lạy Thánh nhan Chúa bị bầm nát.

Triết gia Bergson có lẽ đã luôn chiêm ngưỡng hình ảnh Đức Mẹ vinh hiển lên trời.

Bernadette ở Lộ Đức hình như luôn chiêm ngưỡng hình ảnh Đức Mẹ khi hiện ra, chắp hai tay ngang ngực, ngước mắt lên trời mà tự xưng: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”.

Thánh Antôn Pađua có lẽ lúc nào cũng mang hình ảnh Chúa Hài Đồng trong tâm tưởng.

Charles de Foucauld cuối đời dường như luôn thông phần tham dự vào niềm vui vô tận của Chúa Giêsu Phục Sinh.

Nữ tu Génévilève Thánh Nhan, chị của Têrêsa Hài Đồng, sáng nào cũng sống cái tâm tư hoan lạc của Maria Magđala được Chúa Phục Sinh tỏ mình ra trong vườn, cạnh mồ thánh vào buổi sáng Chúa nhật Phục Sinh đầu tiên.

Cũng được biết, có một tín hữu, hầu như luôn luôn sống tâm tình của hai môn đệ Emmaus, vì như luôn có Chúa Giêsu Phục Sinh đồng hành trên mọi nẻo đường đời, nhất là vào hoàng hôn của mỗi ngày Chúa nhật…

Sau đây xin gợi ra một số ý nghĩ, cảm tình, có thể dùng khi chiêm niệm Mầu nhiệm thứ nhất trong năm sự Vui. Hy vọng những gợi ý đơn sơ này sẽ cho thấy được phần nào sự phong phú vô tận của việc lần hạt Mân Côi, với thái độ chiêm niệm, có nhiều điều gợi ý, nhưng như vừa nói thực ra mỗi người chỉ cần một điều nào đó thích hợp là đủ. Vậy lúc chiêm ngắm mầu nhiệm truyền tin, ta có thể chọn một trong những gợi ý sau đây:

1. Đồng hoá với vũ trụ, với nhân loại, như quy tụ lại trong lòng Đức Mẹ, khao khát chờ mong sự viếng thăm và ngự xuống của Thiên Chúa Ngôi Hai, như quả phụ vọng phu đứng chờ chồng. Thật vậy, cả vũ trụ có thể ví như người nữ vọng phu vắng bóng lang quân là Con Thiên Chúa , chờ ngày hôn phối thiêng liêng. Linh hồn cá nhân ta cũng vậy, Hội Thánh cũng vậy, nhân loại cũng vậy.

2. Đồng hoá với Đức Mẹ, dâng sự thuận tình tin tưởng, đón nhận lệnh truyền của Chúa, mở rộng tâm hồn cho Chúa Thánh Thần ngự xuống bao phủ. Có thể nói là để Ngài thực hiện một sự Nhập thể thiêng liêng của Ngôi Hai trong chính bản thân ta, để tiếp diễn chính cuộc đời của Chúa Giêsu qua đời ta.

3. Ta có thể xin cho ta và tất cả mọi người nhận rõ được ơn thiên triệu của mình, và được như Đức Mẹ biết thưa “xin vâng” và chu toàn trọn vẹn.

4. Ta có thể tự hạ mình thẳm sâu để thờ lạy sự khiêm nhường thẳm sâu của Thiên Chúa Ngôi Hai uy quyền toàn năng, hạ mình xuống làm một bào thai, bé hơn hạt cát nhỏ, trong lòng một Trinh Nữ nghèo khó.

5. Hợp ý với Đức Mẹ, ta thông công cùng toàn thể Hội Thánh, đại diện cho cả nhân loại và vũ trụ mà thờ lạy Thiên Chúa ngự trong lòng Đức Mẹ, như ta thường thờ lạy Thiên Chúa ngự trong Bí Tích Thánh Thể, trong Nhà Tạm. Đức Mẹ thường được xưng tụng là Hòm Bia Thiên Chúa là vì vậy.

6. Ta vui mừng hoan hỉ vì từ nay thụ tạo không còn bị côi cút cô quạnh, cách xa mặt Thiên Chúa nữa. Vì chính Thiên Chúa đã ngự xuống trần gian, cắm lều ở giữa chúng ta.

7. Kết hợp với Đức Mẹ mà dâng tất cả lên Thiên Chúa Cha, làm một với Chúa Giêsu cũng đang hiện diện trong lòng ta cách thiêng liêng như thực ngự trong lòng Đức Mẹ vậy.

8. Suy gẫm về tính cách mầu nhiệm âm thầm kín đáo của những việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm, đang làm và sẽ làm mà con mắt thế tục không hay biết gì, để thêm tin tưởng vào sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa trên đời ta, trên lịch sử của nhân loại, của Hội Thánh. Quả vậy, khi Ngôi Hai ngự xuống trần gian, ngoại trừ Đức Mẹ, không ai biết cả. Hiện nay và mãi mãi Chúa cũng làm những việc vô cùng kỳ diệu trong lĩnh vực siêu nhiên mà không ai hay biết.

Ví dụ: giữa lúc Đức Quốc Xã hoành hành, gần như sắp làm chủ cả thế giới, thì trong một lò hoả thiêu nào đó, nữ tu Têrêsa Bênêđicta Thánh Giá được ơn hoả thiêu, thân xác biến thành tro, tung rải rơi rớt chẳng biết bay về đâu (sự hoả thiêu ấy, đúng là ƠN, bởi vì người nữ tu này đã được phép bề trên cho tuyên khấn dâng mình làm của lễ toàn thiêu để ngăn chặn làn sóng Đức Quốc Xã sắp uy hiếp khắp nhân loại và Hội Thánh). Sự hoả thiêu ấy là cả một sự bừng nở của một đoá hoa thiêng liêng tuyệt mỹ. Còn tác dụng của nó trên lịch sử Hội Thánh và lịch sử nhân loại lớn lao đến mức nào, thì có ai biết , ai lường cho được?

Chính trong lúc ta viết, ta đọc dòng chữ này, có thể Thiên Chúa cũng đang thực hiện những sự kỳ diệu như vậy, mà có ai biết ai hay? Suy gẫm về sự lặng lẽ âm thầm của mầu nhiệm Truyền Tin, ta sẽ có một cái nhìn khác hẳn về sử quan. Điều chi phối lên chiều sâu của lịch sử (lịch sử cứu độ cũng như lịch sử phàm trần) không phải là những biến cố rầm rộ lẫy lừng bên ngoài, chỉ bùng lên rồi xẹp xuống; song là những gì diễn ra ở trong thế giới sâu xa thầm kín của nội tâm các linh hồn, trong đó có linh hồn ta.

Xưa kia giữa trần gian, ai biết được cô thiếu nữ Maria tầm thường kia sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta cũng thế, dù là quét chợ, bán hàng rong, tê liệt, đui mù, cũng là con cái Thiên Chúa, là Đền Thánh, nơi Chúa ngự phần nào tương tự như “lòng Bà đầy ơn phúc”. Mỗi lần lên bàn thánh rước lễ trở về bàn quỳ, ta có thấy được sự cao trọng tuyệt vời đang xảy ra trong lòng ta không? Ý thức được điều ấy, ta sẽ thấy mọi của cải trần gian, danh vọng… sẽ là rơm rác tro bụi.

Ta trầm trồ khen ngợi, hãnh diện, kênh kiệu, vì loài người đã đặt chân lên cung trăng mà ta lại đui mù trước sự lạ vượt xa mọi sự lạ: một linh mục ở một nhà nguyện tồi tàn nào đó trong một vùng quê hẻo lánh nghèo nàn, chỉ có vài chục hộ giáo dân lao động, bữa đói, bữa no, thế mà mỗi buổi sáng, dưới ánh nến chập chờn khi ông cầm lấy miếng bánh nhỏ khẽ nói: “Này là Mình Ta” tức thì Ngôi Hai Thiên Chúa ngự xuống trên Bàn Thờ, chung quanh có chín phẩm Thiên Thần, các thánh Nam Nữ thờ lạy, tung hô (cung vàng điện ngọc, lâu đài, dinh thự, quyền bính trần gian có nghĩa lý gì so với cuộc thiết triều linh thánh ấy).

Trong lúc ta đang viết, đang đọc những dòng chữ vô duyên này, ai biết đâu Thiên Chúa đang cho những bào thai như Têrêsa Hài Đồng, như Đaminh Saviô thành hình. Ai biết đâu Ngài đang kết hợp những cặp vợ chồng như ông bà Louis Martin, ông bà Frédéric Ozanam, ông bà Jacques Maritain. Biết đâu trong lúc này ở một toà giải tội, nơi một góc xó trong một nguyện đường nào đó, một linh hồn tầm cỡ Charles de Foucauld đang nhận bí tích Giải Tội, mở đầu một cuộc đời thánh thiện, khơi chảy cả một truyền thống thiêng liêng hùng vĩ. Hoặc trên một giường bệnh nào đó, nơi một pháp trường nào đó, có những linh hồn đang trở về cùng Chúa ngay giây phút cuối đời, khi sắp trút hơi thở cuối cùng, như Fransini, như người trộm lành. Biết đâu trong giây phút này, cạnh một cột nhà thờ nào đó, có một Paul Claudel hay một André Frescard tò mò vào xem chầu Mình Thánh, nghe nhạc nghe giảng cho vui, bỗng nhiên nhìn nhận ra chân lý và được ơn trở lại. Nói rằng: “biết đâu” chỉ là một cách văn vẻ để nói “chắc hẳn là như thế”. Những điều kỳ diệu như vậy là do ơn Chúa, ơn Đức Mẹ, nhưng đồng thời cũng là do lời cầu nguyện âm thầm của bao linh hồn thánh thiện.

9. Nếu có ít nhiều xu hướng triết lý, ta có thể suy gẫm về giá trị của thân xác và vật chất (qua thân xác con người), về vấn đề trong tương quan giữa tinh thần và cơ thể (vì Ngôi Hai mặc lấy xác phàm).

10. Cầu nguyện cho bao người được thụ thai trong mỗi giây phút để tất cả được ơn cứu độ, đạt được cứu cánh tối hậu của kiếp người là trở nên con cái Thiên Chúa trong Đức Kitô để hưởng hạnh phúc muôn đời.

11. Hợp lòng cùng Trái Tim Đức Mẹ mà yêu mến Chúa, và hợp cùng Thánh Tâm Chúa mà yêu thương Đức Mẹ. Cùng trong một nhịp với hai trái tim chí thánh ấy mà kính mến Thiên Chúa Cha, mà yêu thương mọi người, mà yêu thương cuộc đời. Vâng, yêu thương cuộc đời này vì đời này là vườn ươm gieo mầm sự sống siêu nhiên vĩnh cửu, đời này là một cuộc hành hương trẩy hội, tuy có vất vả gian khổ, nhưng cuối cùng sẽ đưa con người có thiện tâm đến chỗ thành tựu viên mãn trong Nước Trời muôn thuở.

12. Xin Đức Mẹ nhận chính mình ta vào trong lòng Mẹ như Mẹ đã nhận lấy Chúa Giêsu vậy…

Trên đây chỉ là gợi ra một vài hướng suy nghĩ để người đọc thấy rằng mỗi một mầu nhiệm tiềm ẩn bao nhiêu là ý nghĩa cao thâm, có thể là của ăn siêu nhiên vô cùng vô tận cho tâm hồn. Và như trên đã nói: chỉ một ý nghĩa cũng đã đủ cho tâm trí ta đào sâu mãi không cùng, khác nào như miệng ngậm đường phèn, như ong hút mật hoa, như diệp lục tố hút năng lượng mặt trời, như rễ cây hút nhựa sống từ lòng đất phì nhiêu.

Hơn nữa, cần nhắc lại rằng, như đã nói trên đây, chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho đúng. Chính Chúa Thánh Thần mới là chủ thể nguyện cầu đích thực. Tất cả những nỗ lực của chúng ta, trước là để bày tỏ thành tâm thiện chí, sau là để điều chỉnh khả năng tâm lý và tâm linh hầu thanh lọc dần những ý tưởng, cảm tình, hình ảnh, ước muốn uế tạp của thế gian và thay thế bằng những ý tưởng, cảm tình, hình ảnh, ước muốn phù hợp và thích ứng với Lời Chúa hơn. Công việc của ta khác nào như so lại dây đàn, còn nhạc sĩ chính là Chúa Thánh Thần sẽ trực tiếp linh ứng, tấu lên những ngón đàn kỳ diệu vượt quá tầm mức của bất cứ con người nào. Và Thánh Thần thì sẽ không biết từ đâu thổi đến và sẽ thổi đưa đi đâu. Rất có thể rồi sẽ như trường hợp của Têrêxa Hài Đồng chỉ nghe tiếng kêu của Chúa Giêsu: “TA KHÁT” là đủ để lấy quyết tâm trì chí dâng trọn tình yêu lên để làm dịu cơn khát tình yêu của Thiên Chúa như luôn nài nỉ van lơn xin ta bố thí cho Ngài một hớp nước hèn mọn của tình yêu ta. Hoặc sẽ như Giaxintha ở Fatima luôn luôn khắc khoải về số phận muôn đời của các linh hồn, nên luôn luôn hãm mình hy sinh để cầu xin Chúa ban ơn cứu vớt các linh hồn sắp bị hư mất đời đời…

Trong bàn tiệc thánh của 15 mầu nhiệm chuỗi Mân Côi, Chúa và Đức Mẹ đã dọn ra vô vàn sơn hào hải vị thiêng liêng, ta sẽ tuỳ vị trí, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ tâm tư, tuỳ ơn thiên triệu mà tha hồ lựa chọn, chỉ một món cũng đủ, miễn là ta sống tận tình, kiên trì, bền đỗ. Bởi vì tất cả chỉ là những dạng thức khác nhau của cùng một điều duy nhất: đó là YÊU MẾN.

An ủi Thánh Tâm, an ủi Mẫu Tâm, cầu nguyện cho các linh hồn, cầu cho Đức Giáo Hoàng, cầu cho hoà bình, cầu cho Chúa mau đến lại… chỉ là những nốt khác nhau của một bản nhạc duy nhất, do một nhạc sĩ duy nhất là Thần Linh Thánh Ái ở trong Ba Ngôi Thiên Chúa tình yêu. Do đó, mỗi khi đã tìm ta được món ăn thiêng liêng duy nhất dành riêng cho mỗi tâm hồn, ta chỉ còn quỳ gối, cúi đầu nhắm mắt lặng yên mà thờ lạy kính yêu, như trường hợp hai mẹ con Thánh Mônica và Thánh Augustinnô, hai chị em Têrêxa và Xêxilia Martin, hai chị em thiêng liêng Têrêxa Avila và Gioan Thánh Giá, hai người bạn Phanxicô và Clara sau khi trao đổi thiêng liêng, rồi cùng nhau im lặng, họ đã hầu như quên tất cả (nhất là quên hẳn chính mình) đi vào thế giới thần hiệp siêu nhiên chìm đắm, có thể nói gần như tan biến, mất hút vào trong trùng dương bát ngát của tình yêu Thiên Chúa chẳng khác gì như đã được nếm trước cái hương vị thần diệu của Nước Trời vĩnh cửu.

Tâm hồn sẽ cảm nghiệm được phần nào Lời Chúa hứa. Ta sẽ đến ở trong các con, tỏ mình cho các con, và tự đáy lòng các con sẽ vọt lên nguồn mạch nước trường sinh (Ga 14,23; 7,37-38). Dòng nước ân sủng làm cho vườn Thượng Uyển là chính tâm hồn ta trổ hoa, đậu quả, dâng lên rất đẹp mắt Thiên Chúa muôn trùng chí thánh sẽ tràn chảy tưới mát vườn nho của Thiên Chúa, làm cho bao mầm lúa đâm chồi, đơm hạt đi đến mùa gặt huy hoàng… và không những thế mà còn gián tiếp chi phối lên dòng lịch sử nhân loại kết quả phúc lợi thiêng liêng khó mà lường được. Lúc ấy, ta sẽ nhận định một cách hiện thực, sâu xa và kiên định đâu là sự bình an và niềm vui của Chúa ban, đâu là hạnh phúc thật. So với mối phúc thật ấy thì mọi sự trần gian: vui buồn, khoẻ mạnh, ốm đau, giàu nghèo, thành bại, thịnh suy, vinh nhục và cuối cùng cả sự sống, sự chết nữa, chỉ là hình bóng qua mau. Chỉ riêng có 15 sự trong chuỗi hạt Mân Côi mà Đức Mẹ ban cho ta, mời gọi ta ôn nhớ, ghi tạc, suy gẫm, thông dự, chung sống, mới là thực tại thực sự tồn tại muôn đời. Và lúc ấy ta mới thực sự nếm được cái vui mừng thật của Tin Mừng, và ta sẽ loan truyền đều ta thực sự nếm được ấy, trước hết bằng chứng tích của một cuộc sống thực tế hằng ngày với những vui, buồn, sướng, khổ, thăng trầm như mọi kiếp sống của anh chị em ta. Đó là điều chính yếu, ai cũng làm được và có nhiệm vụ phải làm như nhau. Rồi nếu quả là có ơn kêu gọi thì tuỳ nơi, tuỳ lúc, tuỳ người, tuỳ cách ta làm chứng nhân trong khiêm nhường, kín đáo, thận trọng, tế nhị, kiên trì, nhẫn nhục và nhất là trong yêu thương.

Nếu được vậy thì tâm hồn ta sẽ luôn phảng phất hình ảnh Đức Mẹ đồng hành, phù trợ khích lệ, an ủi, soi sáng. Lúc nào cũng như thầm vang lời chào mừng Mẹ và Con Mẹ, trong từng cái “khi nay” và suốt cuộc đời ta, cho đến “khi nay” cuối cùng là “giờ lâm tử”, đúng hơn là “phút sinh thì”, lúc ta sinh vào trong cõi sống muôn đời. Một cuộc đời như vậy là thực hiện được ý Cha trọn vẹn như lời của Chúa Giêsu và Đức Mẹ được trình bày thâu gọn qua chuỗi Mân Côi, miễn là ta sạch tội, thì cả cuộc đời, và ở đâu, lúc nào, làm gì, dù biến cố phủ phàng mấy đi nữa cũng được chung tâm tình với Đức Mẹ mà biến thành một bài “Magnificat” khởi đầu ở trần gian và tiếp tục nơi vinh phúc muôn đời không dứt “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa” vì lòng xót thương của Người tồn tại đến muôn đời. Amen.

VÀI LỜI MINH XÁC 

Trên đây là những suy niệm thiêng liêng chủ yếu có tính cách “gợi ý”, “gợi cảm”, “tạo hình”, “đánh động tâm hồn”, nhằm hướng người tín hữu trong đời sống nội tâm và hành vi thực tế, chứ không phải là những “suy tư thần học chuyên môn”. Vì thế, những từ ngữ, những quảng diễn (chứ không phải là những diễn dịch lô-gíc chặt chẽ) chỉ có mức độ tương đối, nhằm tác dụng gợi ý, đánh động tâm linh, chứ không đem lại những phạm trù tư tưởng chính xác. Mục đích là giúp các tín hữu được thông dự và gần gũi vào những thực tại siêu nhiên, chứ không nhằm tạo thành một hệ thống tư duy thần học. Có thể nói, những trang trên đây thuộc về loại văn “tâm sự thiêng liêng” gần với văn nghệ hơn nghị luận.

1. Những từ ngữ “hiện diện”, “đồng hoá”, “hiện thực”, “tác động”, nói về Đức Mẹ Maria, chỉ có nghĩa biểu tượng để nhấn mạnh ơn siêu nhiên mà Thiên Chúa đặt vào tay Đấng thông ơn Thiên Chúa, chứ không có nghĩa “hữu thể học”, so sánh sự hiện diện của Đức Mẹ như tương tự sự hiện diện của Chúa trong bí tích Thánh Thể, chỉ là một cách nói gợi hình cho dễ hiểu, dễ cảm, giúp cho đời sống thiêng liêng được thêm phần sống động, sâu đậm, bền bỉ mong cho tâm hồn được thêm phần sốt sắng và vững chắc, chứ không phải là những khẳng định về tín lý.

2. Trái lại, những ý nghĩ thoạt nghe có thể hiểu như là hạ thấp quyền năng và vị thế của Mẹ Maria cũng vậy, đó chỉ là cách nói để nhấn mạnh tín điều “Nhập Thể”, thật sự “làm người” của Ngôi Hai, để giúp cho tâm hồn cảm nghiệm và sống sự gần gũi thân mật, thiết nghĩa của Tình Yêu Thiên Chúa qua sự chuyển tiếp của Đức Mẹ, theo hai chiều: trên xuống và dưới lên. Như vậy để thấy rằng Thiên Chúa đã yêu thương loài người tới mức tự hạ đến tột cùng. Sự “hạ thấp” ấy thực ra là một sự “nâng cao”. Tình yêu của Thiên Chúa đã cúi xuống trên phận hèn tôi tá như chính lời Đức Mẹ ngợi khen Thiên Chúa.

3. Chủ yếu những trang này không phủ nhận sự cần thiết phải cầu xin về các nhu cầu cần thiết ở trần gian, như cơm ăn, tài sản, tình duyên, sự nghiệp. Nó cũng khẳng định Đức Mẹ thường giúp đỡ con cái mình về các mặt ấy, và Đức Mẹ là người trăm phần trăm nếm đủ mùi cay đắng của cuộc đời trần thế của lớp người phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày. Thế nhưng chỉ muốn gợi ý rằng cần phân biệt đâu là chủ yếu, đâu là thứ yếu, thiết lập một nấc thang giá trị đúng đắn và quân bình, hướng thượng chứ không khinh hạ.

4. Nếu ở đây có nhấn mạnh đến phầm động tác chủ động của con người trong mầu nhiệm cứu độ, thì không phải là phủ nhận tính cách “nhưng không” (gratuit) của ân sủng, mà chỉ muốn nhắc lại ơn gọi của con người là những hữu thể có tự do được Thiên Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh Ngài, tức là những chủ thể có ngã vị, có tự do, được mời gọi trở nên cộng tác viên của Ngài, như thánh Augustinô đã nói: “Để tạo dựng nên con, Chúa không cần có con, nhưng để cứu độ con, Chúa cần có con cộng tác”. Thật ra nếu đọc kỹ sẽ thấy rằng, sự cộng tác được trình bày ở đây nhằm vào thái độ chuẩn bị sẵn sàng đón nhận ân sủng ban cho nhưng không, nhất là thái độ “thuận tình”, “phó thác” được biểu lộ trong hai chữ “XIN VÂNG” để cho chính tác động của Thiên Chúa được hoàn toàn có hiệu năng.

5. Trong việc cầu nguyện có một thứ tự trên dưới: thờ lạy, cảm tạ, đền tạ, cầu xin. Những trang này không có ý phủ nhận sự cần thiết của việc “cầu xin”, nhưng chỉ muốn thiết lập lại trật tự trên cho quân bình và trong những điều xin cũng muốn nhắc lại trật tự: xin cái gì cần thiết nhất (Chúa dạy đừng nói nhiều khi con cầu nguyện vì ta chưa xin Cha trên trời đã biết ta cần những gì. Chúa cũng bảo chỉ có một điều cần thiết thôi) và các sự khác sẽ ban thêm sau. Cần nhớ trật tự trước sau ấy.

6. Về các nhân vật chưa được Hội Thánh chính thức phong hiển thánh: bà Martin, ông bà Maritain, Giaxintha, Eve Lavallière, Bênêđicta de La Croix, Charles de Foucauld, Pascal… người viết chỉ nhắc đến như những bậc anh chị đi trước mà chúng ta có thể noi gương và rút ra những bài học bổ ích từ kinh nghiệm sống của các vị ấy như bất cứ tín hữu nào có ít nhiều dấu hiệu có một đời sống đạo đức cao sâu, thế thôi, chứ không phải đặt các vị ấy lên bàn thờ trước quyết định của Hội Thánh. Tuy nhiên hầu hết các vị ấy đều đã có sắc chỉ của Toà Thánh, hoặc của Giáo Hội địa phương bắt đầu việc điều nghiên tra cứu để đi đến việc tôn phong hiển thánh.

Dầu sao, tóm lại, những điều ghi chép trên đây chỉ có tính cách suy niệm riêng tư, và cảm nghiệm chủ quan cá nhân chứ không có cao vọng trình bày chân lý khách quan. Người viết ý thức rằng quyền thẩm định tối hậu và đánh giá khách quan là thuộc về những vị có thẩm quyền trong Hội Thánh phẩm trật do Thiên Chúa thiết lập để bảo toàn tín lý và chân lý chính thống của đạo Mạc Khải, mà người viết luôn một lòng tuân phục trong sự phục thiện hiếu thảo trung thành tuyệt đối.

THAY LỜI BẠT – CHIÊM NIỆM BÊN VỆ ĐƯỜNG 

Ngày nay, nhiều giáo dân phàn nàn không có thì giờ cầu nguyện vì phải làm ăn vất vả. Nhiều linh mục tu sĩ than phiền không có thì giờ nguyện gẫm (thường không ít là nửa giờ trong mỗi ngày).

Có lẽ chuỗi hạt Mân Côi sẽ giúp giải quyết khó khăn thực tế ấy, và có thể ảnh hưởng đến đời sống nội tâm. Cái thuận lợi của chuỗi Mân Côi là lần hạt ở đâu cũng được. Cũng không cần phải đọc 50 kinh một lần, mà có thể chia ra 10 lần, 15 lần từ sáng đến chiều tối, mỗi lần 5 hoặc 10 phút là đủ, cộng lại có thể quá nửa giờ.

Ví dụ: sáng dậy, ai cấm vừa vo gạo, vừa bổ củi, vừa giặt đồ… vừa lần hạt. Không cần tay lần hạt, chỉ cần miệng đọc kinh thầm và ngắm. Lúc chờ xe bên vệ đường, lúc đi đến nơi làm việc, lúc nối đuôi mua hàng, thay vì đảo mắt nhìn quanh lơ láo, thay vì vểnh tai nghe chuyện tào lao, hoặc nôn nóng bực bội chuốc mệt vào lòng, lại bị giác quan lôi cuốn cám dỗ lăng nhăng, khiến lòng trí chạy theo chuyện đâu đâu. Thay vì lo buồn tức giận, mộng mơ, ước muốn vớ vẩn, chuốc lấy xốn xang và có nguy cơ sa ngã, thì hãy cầm trí và lần hạt. Ai cấm được, ai ngăn cản được, ai dòm ngó rình mò được.

Ta cũng biết rằng trong những trường hợp vì hoàn cảnh khách quan không sao giữ lễ chúa nhật được, thì lần hạt Mân Côi cũng là một cách tạm thay thế.

Trong bài thơ mở đầu tập này có câu: “Mẹ là Nguyện Đường mầu nhiệm”. Chuỗi hạt Mân Côi có thể ví như ngôi nhà nguyện nhỏ ta mang theo để ta có thể đi vào chiêm ngưỡng Thiên Chúa Tình Yêu, nơi nào lúc nào cũng được. Vả chăng Đức Mẹ thường được ví như Đền Thờ Thiên Chúa, là tháp ngà báu, là đền vàng, là lâu đài Đavít, là ngôi thánh đường cho ta ẩn náu mà cầu nguyện bất cứ nơi nào lúc nào.

Do đó dù bận rộn đến đâu, cộng lại cả ngày thế nào cũng được tối thiểu là nửa giờ cầu nguyện và nguyện gẫm. Có thể đó là cách thực hiện điều mà nhà bác học Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”, là cách chiêm niệm dành cho con người thế kỷ 20, thế kỷ của “chụp giật”, “đua chen”, “hối hả”, “hấp tấp”, lôi cuốn mọi người như cơn lốc lôi cuốn lá rụng tả tơi vậy.

Điều quan trọng là ta có thực sự muốn và thực sự cố gắng không? Hay ta lại lười biếng rồi đổ thừa cho hoàn cảnh, cho cái này, cái nọ; theo kiểu Ađam đổ lỗi cho Eva, Eva lại đổ lỗi cho con rắn. Con người thường rất khéo đổ thừa để tự biện minh. Đừng bao giờ quên rằng trong những thế kỷ đầu của Hội Thánh, phần đông tín hữu thuộc giai cấp nô lệ, nghĩa là những người luôn luôn bị kìm kẹp, bị kiểm soát vô cùng chặt chẽ và lao động quần quật suốt ngày đêm dưới cặp mắt cú vọ của những tên đốc công giám sát cực kỳ dã man tàn ác, hở một giây là đánh đập tàn nhẫn. Thế mà các tín hữu ấy có một đời sống rất thánh thiện, hầu như luôn luôn kết hợp mật thiết với Chúa, và nhất là như luôn chờ đợi Chúa đến. Đời chúng ta vất vả so với đời các bậc cha ông ấy có thấm vào đâu. Nên biết như thế, nhớ như thế và tự suy gẫm kết luận ấy.

Tất nhiên ta cũng không quên rằng, đời người thợ mộc Giêsu thành Nagiarét và bà Mẹ là quả phụ Maria cũng không nhàn hạ tĩnh mịch lắm đâu. Chúa Giêsu thường lẩn trốn vào nơi vắng vẻ lúc ban đêm để cầu nguyện vì chắc hẳn ban ngày Ngài bận rộn lắm. Còn “hầu tước” Charles de Foucauld, nhà chiêm niệm vĩ đại của thế kỷ thì đã rời bỏ dòng kín khổ tu La Trape để sống đời Nagiarét giữa lòng đám quần chúng lao động nghèo hèn, vất vả đầu tắt mặt tối, lam lũ suốt ngày. Có khi còn làm cả ca đêm nữa. Đức Hồng Y Danielou có nói rằng thế kỷ 20 là thời đại mà Thánh Antôn ẩn tu rời bỏ (hoặc bị trục xuất khỏi) hoang địa, hạ sơn sống đời chiêm niệm giữa lòng quần chúng lao động giữa các đô thị công nghệ hoá đầy ắp tiếng động và tràn ngập xê dịch chớp nhoáng.

Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương

Nguồn: Mạng Lưới Dũng Lạc

Chia sẻ Bài này:
[1] [2] [3]