4. Qua Hôn Nhân tôi hiểu đượcTình Yêu Thiên Chúa

Ông bà Stephens Gomes (Bangladesh)

“Sau khi thành hôn, tôi bắt đầu hiểu được sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa trong đời tôi”.

Khi thành hôn, tôi khám phá thấy mình đang bước vào một cuộc sống mới với bao nhiêu trách nhiệm và bổn phận. Tôi lại chưa từng dự một khóa chuẩn bị hôn nhân nào. Tôi càng hoảng hơn khi nghĩ đến cuộc sống mới của mình. Tôi đã cầu nguyện và thiếp đi trong bữa tối hôm thành hôn. Dần dần nỗi lo sợ của tôi biến mất. Rồi phải trải qua những khó khăn đủ loại của cuộc sống cứ đổ tới dồn dập. Tôi dần dần học được cách phó thác cho Thiên Chúa và cầu nguyện với Ngài.

Tôi thường giúp chồng mình trong những công việc tôn giáo và những phục vụ người nghèo của anh. Nhờ đó tôi đâm ra quan tâm tới các việc tôn giáo và phục vụ người nghèo. Tôi gia nhập Hội Thánh Vinh Sơn và cứ từng nhóm chúng tôi đi thăm các gia đình nghèo, cầu nguyện cho họ khi đau ốm, ủy lạo bệnh nhân ở các bệnh viện, lạc quyên nơi người giàu rồi lại phân phát lại cho người nghèo. Vì thế, có thể nói được rằng sau khi bước vào đời sống hôn nhân, tôi đã dần dần cảm nghiệm được sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa trong đời mình. Cuộc sống thật dễ thương dễ mến.

Chồng tôi và tôi vẫn cầu nguyện với nhau mỗi ngày, và việc nầy chúng tôi học được từ ba má chúng tôi. Chúng tôi luôn luôn giữ quan hệ tốt với hàng xóm và họ hàng. Chúng tôi hết sức quan tâm giúp đỡ con cái mình trong việc học tập của chúng.

Ðể chia sẻ gánh nặng tài chánh với chồng, tôi nhận một chân dạy học. Và về chuyện này tôi cũng gặp phải khó khăn vì tôi không phải là một giáo viên đã qua các trường lớp đào tạo. Bà hiệu trưởng lại cần một giáo viên đã được đào tạo và bà buộc tôi phải thuộc mà học tập. Nhưng tôi không thể đi học được vì các con tôi còn quá nhỏ. vậy mà tôi chỉ nhờ tình yêu của Thiên Chúa, điều không thể ấy đã thành có thể, và tôi đã qua cuộc kiểm tra một cách mỹ mãn.

Ðược sự huấn luyện của các chuyên gia về đời sống gia đình – gồm hai linh mục và hai nữ tu – chồng tôi và tôi trở thành những nhà cố vấn cho các đôi vợ chồng trẻ. Chúng tôi giúp đỡ cha sở hướng dẫn những thanh niên muốn lập gia đình. Chúng tôi dạy họ biết thực tế của cuộc sống và chia sẻ những kinh nghiệm của mình cho họ. Chúng tôi cố giúp họ hiểu những nhu cầu thể chất, tinh thần cũng như những nhu cầu tâm linh của họ, những trách nhiệm và quyền lợi của họ đối với nhau. Nói chung là chúng tôi giúp họ xây dựng những gia đình vui vẻ, đẹp đẽ và lý tưởng. Ngay tại trường mà tôi làm việc, tôi cũng tích cực giúp giải quyết những khó khăn mà các đồng nghiệp của tôi gặp phải trong cuộc sống của họ.

Trước khi lập gia đình, tôi ít quan tâm về tôn giáo. Tôi đi lễ ngày Chúa nhật, một đôi khi cũng cầu nguyện. Và tôi cho như vậy là đã làm đầy đủ các bổn phận tôn giáo. Nhưng kể từ ngày kết hôn, tôi bắt đầu cảm thấy một trách nhiệm mới trong cuộc sống mới của mình.

Các khó khăn đã lần lượt xuất hiện trong đời sống gia đình của tôi và tôi chẳng thể nào dàn xếp chúng được. Tôi đã không hề tiên liệu rằng những khó khăn ấy lại xẩy đến nhanh như thế. Tôi không có đủ can đảm và nghị lực để đương đầu với chúng. Sự bất lực hoàn toàn nầy đã dẫn tôi đến với Chúa. Dần dần tôi khám phá được Thiên Chúa và học cách phó thác cho Ngài.

Ðọc sách tôn giáo và hát những bài hát đạo cũng tạo hứng thú cho tôi rất nhiều. Thời gian nầy tôi có quan hệ với một vài tu sĩ và cũng thấy được hứng khởi để sống một đời sống tốt đẹp.

Sau khi thành hôn, tôi bắt đầu hiểu được sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa trong đời mình. Thiên Chúa thúc giục tôi làm một cái gì đó cho Người, và cơ hội mà Người tạo ra cho tôi chính là những công tác trong Hội Thánh Vinh Sơn. Hiệp hội này bắt đầu hoạt động ở Tổng Giáo Phận Tejgaro năm 1972 và tôi đã tham gia vì muốn phục vụ người nghèo. Cùng với các hội viên khác, chúng tôi ân cần thăm viếng các gia đình nghèo và tìm hiểu các nhu cầu của họ. “Thiên Chúa ở với người nghèo”, câu nói ấy của Thánh Vinh Sơn đã làm tôi hết sức xúc động. Bằng cách đó chúng tôi bắt đầu làm việc cho vị chủ tốt lành. Tôi thường đọc các sách đạo, và để tạo điều kiện ấy cho người khác, tôi làm luôn công việc bán những sách vở đó. Vì vậy tôi phải có mặt ở nhà thờ trong tất cả các thánh lễ của mỗi ngày Chúa Nhật.

Cũng từ đó mà nỗi khao khát về linh đạo đã bắt đầu dâng trào trong tôi. Tôi phấn đấu để tham dự các khóa hội thảo, các kỳ tĩnh tâm và các cuộc hội họp tôn giáo. Tôi tham gia phong trào Canh Tân Ðoàn Sủng vào năm 1983. Ðến nay, tôi đã tham dự năm kỳ tĩnh tâm trong khuôn khổ của phong trào này do Ngài Frize từ Ấn Ðộ sang hướng dẫn. Tôi đã ghi khó khăn lớn nhất của mình ra trên một mảnh giấy nhỏ và đã xin Ngài cầu nguyện theo đó. Cần phải thuyết phục được khó khăn nầy cho tôi. Thế mà chỉ dù một người thôi, tôi cũng chẳng có khả năng để tác động: Nhưng – thật lạ lùng, sau ít ngày, tất cả họ đã thay đổi, và như vậy có nghĩa là vấn đề của tôi đã được giải quyết bởi chính Ðức Giêsu. Tôi bắt đầu hiểu ra ý nghĩa đích thực của ca ngợi, cầu xin, yêu thương và tha thứ. Tôi nhận ra rằng Chúa đang hiện diện, rằng Người nghe tất cả và đáp ứng tất cả những ý nguyện của chúng ta.

Song song với những hoạt động tu đức đó, tôi quyết định sống một đời sống ngay lành. Tôi đã cầu xin Chúa giữa tôi trong một công việc nào đó tôi không bị cám dỗ dính líu đến những của đút lót phi pháp. Chúa nhân lành đã nhận lời cầu xin ấy và Người đặt tôi vào chỗ an toàn nhất cho đến bây giờ: tôi làm ở chi nhánh điện thoại và điện tín.

Ngoài bổn phận gia đình và các công tác trong Hội Thánh Vinh Sơn, tôi còn tham gia Cộng Ðoàn căn bản nữa. Trong khuôn khổ Cộng Ðoàn này tôi đã cố gắng hết sức mình trong sự cách là một trưởng nhóm để thúc đẩy các cặp vợ chồng hiệp nhất với nhau hơn, khuyến khích họ dành nhiều sự săn sóc hơn nữa đối với con cái.

Thiên Chúa không ngừng ban nghị lực để tôi trình bày sự thật và công bằng. Có nhiều trường hợp bà con lối xóm mời tôi dàn xếp những xích mích của họ theo tinh thần Kitô giáo.

Tôi cố gắng thăng tiến đời sống đạo của tất cả mọi người trong gia đình tôi. Tôi tham dự các cuộc tĩnh tâm, hội thảo và những buổi cầu nguyện cùng với vợ và các con mình vì lợi ích chung của gia đình.

Tôi muốn lên Thiên Ðàng không chỉ một mình nhưng cùng với vợ con. Cũng vì thế mà vợ và các con tôi đã hỗ trợ tôi trong mọi hoạt động tôn giáo. Có ai đó đã nói rằng một anh chồng không được phép Thiên Ðàng một mình, nhưng phải vào đó với vợ con anh. Chỉ khi nào muốn xuống hỏa ngục thì mới xuống đó một mình.

Tôi cũng tận tâm phụ giúp cha sở. Và mỗi khi có khó khăn nào xẩy ra, tôi ký thác cho Ðức Giêsu, rồi không nghĩ về nó nữa. Tôi cố gắng gìn giữ sự bình an trong tâm hồn. Người giải quyết các vấn đề cho tôi chính là Chúa Giêsu. Tôi muốn kể lại một trong những trường hợp đó. Tôi có khả năng phải chuyển công tác từ Dhata đến Khulna. Và tôi nhìn thấy trước những khó khăn cho gia đình cũng như cho chính mình trong việc thuyên chuyển này. Vì thế tôi cầu xin Chúa thu xếp sao cho tình huống ấy đừng xẩy ra. Cha đã can thiệp vào sự suy nghĩ của tất cả các thượng cấp của tôi, và họ đã giữ tôi ở lại Dhata.

TÌNH YÊU THIÊN CHÚA ÐỘC NHẤT VÔ NHỊ

“Không phải vì ta tốt lành mà Chúa yêu ta, nhưng vì Người là Tình Yêu và Người muốn làm cho ta trở nên hình ảnh của Con Một Người. Tình yêu ấy không phải do ta kiếm được, mà do Người cho không! – Thiên Chúa yêu chúng ta một cách miễn phí và một cách tự do. Tình yêu Thiên Chúa là một quà tặng. Và tất cả những gì chúng ta cần làm là hãy đón nhận món quà đó!” (Marek Shwarnicki)

Trích Linh Ðạo Cho Giáo Dân Ngày Nay

LAY SPIRITUALITY TODAY

Rev. Jess S. Brena, SJ, Taiwan

Chia sẻ Bài này:

Related posts