Lm. Lê Phú Hải OMI
Thánh sử Lu-ca bắt đầu cuốn Tin Mừng bằng một câu văn mào đầu.
Ông bắt chước các tác giả cùng thời đề tặng tác phẩm cho một
nhân vật, và ở đây nhân vật ấy tên "Thê-ô-phi-lô". Sau
câu văn đề tặng ấn định mục đích, tác giả bắt đầu với giai
đoạn thời thơ ấu của Đức Giêsu (Lc 1,5-2,52). Hai đoạn riêng biệt
này theo Lu-ca cũng mang rất nhiều điều khác biệt với trình thuật
thơ ấu theo Tin mừng Mát-thêu. Lu-ca khai triển ngay trong hai chương đầu
những chủ đề chính của cuốn Tin mừng.
Hai chương này như lời mở đầu có tính chất Kitô
học; hơn nữa còn là lời tuyên xưng đức tin mà lý do và sức
mạnh lấy ra từ biến cố Phục sinh và trù định khởi đầu từ
cuộc đời của Đức Giêsu một ánh sáng hoàn toàn về mầu nhiệm
của Người. Trình thuật đời thơ ấu cũng rất quan trọng vì cho mọi
người vật liệu phong phú để suy tư. Hai chương này khẳng định
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và chỉ định nguồn gốc con người của
Người.
Về việc biên soạn, đoạn văn được biên soạn rất khoa học nhưng
theo lối suy tư của người Đông phương. Một phương cách không chỉ
vạch rõ những khái niệm nhưng trình bày những thực tại trong
điều thuật lại làm biểu lộ sự phong phú ẩn giấu. Tin mừng thời
thơ ấu theo Lu-ca nhấn mạnh đến cách thức văn chương song đối
giữa những nguồn gốc của Đức Giêsu và Gioan Tẩy giả cho dù
những chi tiết có thể thay đổi đôi chút.
Những trình thuật về truyền tin (Lu-ca 1,5-25 và Lu-ca 1,26-38) và sự ra đời (Lu-ca 1,57-58 và Lu-ca 2,1-20) mang một đối chiếu hiển nhiên. Ngoài ra, cấu trúc song đối cho thấy tác giả Lu-ca đã thêm vào bốn bài ca giữa những trình thuật bằng thể văn xuôi. Đó là bài ca Magnificat do Đức Maria xướng lên lúc đi thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét (Lu-ca 1,46-55), bài ca Benedictus do ông Da-ca-ri-a xướng hát (Lu-ca 1,68-79), bài ca Gloria do các Thiên Thần hát vang tại cánh đồng Bêlem (Lu-ca 2,14), và bài ca Nunc Dimittis do ông già Si-mê-ôn chúc tụng tại đền thờ (Lu-ca 2,29-32). Những bài ca này mang âm hưởng trữ tình nhưng có tính cách chủ quan diễn đạt niềm xác quyết về sự cứu độ trong biến cố nhập thể. Hơn nữa, những bài ca không có gì mới mẻ về chất liệu văn chương vì nó chất chứa đầy dãy diễn ngữ Cựu ước. Cái mới chỉ nằm trong ý nghĩa mà thôi.
Trong bài này, chúng ta chỉ tìm hiểu về bài ca thứ
nhất trong Tin mừng thời thơ ấu theo Lu-ca : Bài ca ngợi khen Magnificat
1,46b-55.
1. Cấu trúc bản văn
Lu-ca 1,39-56 thường được gọi là trình thuật
"Thăm viếng". Bài văn nằm giữa hai trình thuật truyền tin (Lc
1,5-38) và hai trình thuật ra đời (1,57-2,52). Trình thuật Maria thăm
viếng bà Elisabeth (Lu-ca 1,39-56) mang tác dụng làm gạch nối giữa hai
trình thuật truyền tin và biến cố những sự sinh ra. Lu-ca 1,39-56 là
một đoạn văn mới đối với những gì xảy ra trước. Trong cùng
một đoạn chúng ta còn có thể chia nhỏ ra làm hai phần. Lu-ca 1,39-45
là trình thuật nói về việc thăm viếng. Trước hết tác giả nói
về cuộc viếng thăm (câu 39-42a), và từ câu 42b đến câu 45 là
đoạn Elisabeth ca ngợi Maria đầy ơn Thánh Thần. Bắt đầu câu 46, Maria
làm bùng nổ nỗi vui nừng sau khi nghe lời người bà con ngợi khen
mình và Maria tạ ơn Thiên Chúa.
Cấu trúc bài ca Magnificat cũng tương đối hơi dễ thấy. Bài ca
được chia ra làm bốn phần tương đối hài hòa và không bị phản
nghĩa :
Ạ câu 46-47: Lời huấn dụ
B. câu 48-50: Lý do Tạ ơn
C. câu 51-53: Thiên Chúa can thiệp giúp kẻ hèn kém
D. câu 54-55: Thiên Chúa can thiệp cho Ap-ra-ham và miêu duệ của ông.
2. Thể loại văn chương đoạn văn Lu-ca 1,46-55.
Chúng ta thường gọi bài Magnificat là bài thánh ca
của Đức Maria, và chúng ta cũng dễ dàng chấp nhận đoạn văn Lu-ca
1,46b-56 là một bài ca chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa. Trước hết
là lời Maria tạ ơn và kế tiếp Ngài đại diện cho dân tộc ít-ra-en
ca tụng ơn cứu độ Thiên Chúa mang lại cho dân. Tác giả L. Ramoroson,
trong bài nghiên cứu "Ad structuram cantici Magnifia" cho rằng bài
thánh ca của Đức Maria là một thánh thi theo truyền thống như thánh
vịnh 136. Câu hỏi đặt ra là bài ca Magnificat là một bài thánh thi hay
là một thánh vịnh tạ ơn ? Các nhà chú giải thường phân tách
rất rõ hai thể loại văn chương này, vì nó thiết giả hai thái độ
cầu nguyện của dân ít-ra-en. Tạ ơn tương ứng vào lời cám ơn còn
thánh thi diễn đạt sự chúc tụng qui hướng trước hết vào Thiên
Chúa. Bài thánh thi phản ánh một trong những thái độ tôn giáo
căn bản của con người.
Trong Cựu ước, chúng ta có thể loại thánh thi trong bài ca Myriam theo
sách Xuất hành:
Hãy hát mừng Đức Chúa, Đấng cao cả uy hùng
Kÿ binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương (15,21)
Bài ca Myriam thường được coi là một thánh thi mang tính cách mệnh lệnh và thúc bách. Đây là thể loại được thấy nhiều trong Thánh Kinh. Thánh thi thường được dẫn nhập bằng mệnh lệnh ở số nhiều mời gọi người tín hữu ca tụng và cử hành cho Thiên Chúa. Thân bài thánh thi thường viết lên những việc cao cả Thiên Chúa làm cho dân ít-ra-en hay cho cả loài người.
Trong một cấu trúc hơi đóng kín như thế, bài ca Magnifiact một cách nào đó có thể thuộc thể loại thánh thi. Bài ca của người nữ tỳ thành Na-gia-rét không được bắt đầu với một mệnh lệnh, nhưng lời Maria huấn dụ cũng là cách chúc tụng và cử hành Thiên Chúa (câu 46-47). Cũng vậy, thân bài Magnificat nói đến việc Thiên Chúa can thiệp cho Maria. Bài ca Magnificat có thể là một bản Thánh thi.
Có thể nào đó là một bài thánh vịnh tạ ơn không? Thể loại thánh vịnh tạ ơn cá nhân rất gần với thể loại thánh vịnh thỉnh cầu (9-10; 18; 30; 32; 34; 40;1 16; 138); ngoài ra cũng không quên có những lời tạ ơn tập thể (65; 66; 67; 83; 94; 124; 127;...). Bình thường thánh vịnh tạ ơn mang nhập đề hướng về cho Thiên Chúa, nhưng cũng có thể hướng về cộng đoàn như nhân chứng, hoặc mời họ nhập vào làm một với ca viên. Phần khai triển thường được viết kiểu trình thuật. Đó là những câu chuyện gian khó, những cuộc bách hại hay những tha thứ được trao ban. Sau đó ca viên nhắc lại lời thỉnh cầu lên Thiên Chúa và sau đó Thiên Chúa nhận lời giải thoát. Sự can thiệp cứu rỗi là một yếu tố đặc điểm của bài thánh vịnh tạ ơn. Phần kết luôn hướng về tương lai. Đó là tiếng kêu cảm tạ và là lời mời gọi ca tụng Thiên Chúa.
Nhìn lại bài ca Magnificat, chúng ta thấy có những yếu
tố cấu trúc như trên. Trong phần nhập đề, Maria thưa cùng Thiên
Chúa là đối tượng cho việc cảm tạ. Trong thân bài, điểm hẹn
với thánh vịnh tạ ơn là việc gợi lại sự can thiệp cứu độ
của Thiên Chúa. Vì thế bài ca Magnificat cũng có thể được coi như
thánh vịnh tạ ơn.
Thật ra, chúng ta thấy, thánh thi hay thánh vịnh tạ ơn không khác nhau
nhiều lắm. Và ngay cả trong thánh vịnh cũng có những mảnh thánh thi
như ta thấy trong các thánh vịnh 8; 19; 29; 33; 67; 100... Lời cầu thốt
lên từ tâm hồn và thoát ra từ môi miệng của một người Do
thái không chỉ là lời tạ ơn nhưng còn là lời chúc tụng tức
là ca tụng. Tạ ơn chỉ là một hình khác để ca tụng Thiên Chúa.
Bởi vậy, bài ca Magnificat là một bài thánh vịnh tạ ơn cho việc
cứu rỗi đã hoàn thành trong việc Maria được thụ thai (46-49). Ơn
cứu rỗi trao ban trước hết cho những người khiêm hạ (51-53) và sau
đó là cho ít-ra-en (54-55).
3. Ý nghĩa bài ca.
Ạ Lời khuyến dụ : Lc 1,46b-47.
Lời khuyến dụ nói với tâm trí người nghe. Nó mời gọi và khích
lệ. Lời khuyến dụ bài ca Magnificat đưa người nghe vào toàn bộ
bản thi ca mang nội dung ngợi ca và diễn tả tâm tình vui mừng, nói
khác đi đây là một sự diễn tả lòng hân hoan.
1. Linh hồn tôi "ngợi khen" Chúa.
Maria tán tụng Chúa, Đấng đã chọn Ngài. Động từ "tán
dương", ngợi khen" nguyên nghĩa Hy lạp diễn tả một lời ca
ngợi và tâm tình biết ơn đối với Thiên Chúa. Nếu Maria ca ngợi
Thiên Chúa là vì Chúa là nguồn ơn phúc ban cho Ngài để Ngài trở
nên Mẹ của Đấng Cứu Độ, nơi lời truyền tin của thiên sứ
Gabriel (Lc 1,26-38).
2. Thần trí tôi hớn hở.
Từ ngữ thứ hai diễn tả nỗi vui mừng là động từ "hớn
hở". Đây là một từ ngữ quen thuộc của Cựu ước nói lên
một nỗi vui khi thấy Chúa hiện diện và ơn cứu độ của Chúa đến
với mình (xem Thánh Vịnh 9,15; I-sa-i-a 25,9; nhất là I-sa-i-a 61,10). Động
từ gợi lên niềm hân hoan tràn ngập lòng Maria, đang đội ơn Thiên
Chúa. Đồng thời Maria nói lên lòng biết ơn của Ngài đối với
những ơn ích Ngài nhận được. Chính Chúa đến cứu độ.
3. Vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi.
Trong hành vi tạ ơn đấng hoan hỉ, Maria ca ngợi trước hết công trình
Thiên Chúa cứu độ. Trong các chương Lu-ca 1-2, Thiên Chúa của các
tổ phụ đã thực sự biểu lộ lòng nhân hậu (Lu-ca 1,50-54.58.72.78)
nơi Đức Giêsu Kitô. Còn bài Magnificat và đoạn Beneditus (Luc 1,68-79)
thì với những từ ngữ cựu ước, diễn tả sự cứu độ của
Thiên Chúa trải dài trong lịch sử dân It-ra-en, liên tục thể hiện
ý định này của Người.
Câu này mang những ngữ vựng giao ước. Bài tán tụng của Đức
Maria, như thế, là một bài ca về ơn cứu chuộc. Trong Cựu ước từ
ngữ này được nhắc đến để chỉ về Thiên Chúa đấng cứu thoát
It-ra-en khỏi vòng nô lệ Ai cập và làm thành dân Chúa (1 Sa-mu-en
10,19; I-sa-i-a 12,2 ; 17,10 và 29,9; Thánh vịnh 24,5; 25,5). Trong bài Magnificat,
Maria kêu đến Đấng Cứu độ, cũng là mặc khải lớn lao về Thiên
Chúa. Dân It-ra-en đã nhận lãnh ơn đặc biệt khi Thiên Chúa mặc
khải danh thánh của Người " Ta là đấng hằng hữu" (Xuất
hành 3,14). Khi mặc khải tên mình, Thiên Chúa cam kết với dân
It-ra-ren can thiệp cứu thoát họ khỏi tay người Ai cập (Xuất hành
3,8). Mặc khải Danh Thiên Chúa, như thế, gắn liền với việc Thiên
Chúa cứu thoát các con cái It-ra-en. Người là đấng giải thoát và
đấng cứu độ. Và suốt lịch sử của mình, It-ra-en tiếp tục suy
niệm về việc Thiên Chúa cứu thoát. Nếu việc ra khỏi Ai cập là
một biến cố quyết định trong lịch sử Israel, thì nó cũng là một
công trình giải thoát, nên khi tôn vinh Thiên Chúa là "Đấng
cứu độ", Maria nhắc lại rằng chính Thiên Chúa đến để lập
lại việc giải thoát, đó là sự cứu thoát trong Đức Giêsu Kitô
mà Thiên Chúa ban cho để cứu độ con người.
B) Những lý do của sự Tạ ơn.
1. Vì Người đã nhìn đến phận nữ tỳ hèn mọn.
Động từ "nhìn đến (đoái nhìn)" rất hiếm trong các văn
bản Tân ước, Lu-ca lại là thánh sử duy nhất dùng động từ này
(Lu-ca 1,48 và Lc 9,38). Điều Thiên Chúa đã nhìn đến trước hết đó
là :"Sự thấp hèn của nữ tì của Người". Khiêm tốn
trước hết là một thái độ phục vụ và tiếp cận với tha nhân.
Tâm tình tôn giáo và đạo đức luôn là thái độ hướng đến
Thiên Chúa và những người khác. Những người khiêm tốn là
những người thực thi công lý mà Chúa đòi hỏi. Nên họ có một
thái độ sẵn sàng và nhìn nhận sự lệ thuộc (tùy thuộc) vào
Thiên Chúa. Thái độ này của con người dấy lên lòng khoan hậu
của Chúa. Thiên Chúa tỏ bày lòng ưu ái đối với những người
khiêm tốn.
Maria tiêu biểu cho người nghèo của Chúa một cách tuyệt vời. Ngài
cũng là hiện thân thái độ nền tảng của những người nghèo của
Gia-vê qua thái độ luôn sẵn sàng, hoàn toàn tin cậy vào Chúa. Hơn
thế nữa, Lu-ca nhấn mạnh đến căn nguồn lòng khiêm hạ của Maria khi
tuyên dương Ngài là "nữ tì của Chúa" (1,38) và "sự
thấp hèn của nữ tì của Người" (1,48). Chắc chắn rằng thành
ngữ này rõ ràng nói đến một phụ nữ làm đầy tớ nhưng tước
hiệu đó cũng thường áp dụng cho It-ra-en (như một dân). Như thế,
Maria đã lên tiếng nhân danh It-ra-en. Người nữ tì vô điều kiện
tin vào việc Chúa làm để "cứu thoát dân mình" như trong
Cựu ước Thiên Chúa đã nhìn thấy cảnh khốn khổ của It-ra-en (Đệ
Nhị luật 26,7) và sẽ hành động để cứu thoát. Đó là những
việc Thiên Chúa đã làm khi đưa It-ra-en ra khỏi Ai Cập.
Ngày nay, tất cả truyền thống những người khiêm hạ cô đọng lại
trong đức tin và lòng trông cậy của Maria. Thiên Chúa là tác năng
biết bao sự việc xảy ra không kể hết "vì không có gì mà
Thiên Chúa không thể thực hiện" (1,37). Khi cúi nhìn xuống thân
phận khiêm hạ người nữ tỳ, Thiên Chúa đã chọn Maria và đồng
thời nâng cao tất cả những người nghèo It-ra-en làm tôi tớ của
Chúa (Lc 1,48.52.54). It-ra-en luôn là dân Chúa chọn, nhưng giây phút
chọn lựa quy về Maria, Đấng đại diện cho những người nghèo của
Giavê. Kể từ nay, sự nghèo khó đối với Maria là một sự triển
nở nơi việc Ngài tự dâng hiến cho bản thân và công việc của con
ngài để phục vụ nhân loại.
2. từ nay tất cả muôn thế hệ sẽ khen tôi diễm phúc.
Lu-ca 1,48 dùng động từ "diễm phúc" nhằm diễn tả : tuyên
dương (là) có phúc hoặc đánh giá (là) có phúc. Động từ này
phát sinh từ tĩnh từ "có phúc". Đây là một hình thức
văn chương thường được gọi là các mối phúc. Trong Lu-ca 1,45,
Elisabeth đã ngợi khen Maria, Mẹ Đấng thiên sai "Phúc cho cô kẻ
đã tin...". Nơi chính miệng Maria, từ này lại nới rộng. Maria
được đầy phúc vì lời Thiên Chúa hứa được hoàn thành, nghĩa
là vị việc làm mẹ đấng thiên sai hoàn thành nơi ngài. Khi viết
những chữ này, chắc hẳn Luca nghĩa đến lời Đức Giêsu nói trong
11,28: "Phúc hơn nữa cho những ai nghe lời Thiên Chúa và tuân
giữ lời ấy". Maria được tuyên dương là có phúc làm nổi
bật đức tin của Maria và ý định Thiên Chúa. Đấng đã ban cho Ngài
tất cả ân huệ (1,28-30) và hoàn tất sự liên tục lịch sự ơn
cứu độ.
3. Vì Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều lớn lao. Danh
Ngài là thánh. Lòng tốt của Ngài trải lan từ đời nọ đến
đời kia trên những người kính sợ Ngài (câu 49-50).
Lý do tạ ơn của câu 49-50 không chứa đựng những điều gì khác
lạ. Thật thế, chúng cũng lấy lại những lối nói của Cựu ước
với những nội dung đặc biệt rất phong phú.
3.1. Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều lớn lao
Sự tương tự của bài ca Magnificat với các bản văn Cựu ước cho
chúng ta thấy rằng câu 49a là một lối nói cổ điển nơi lịch sử
Đức Giavê cứu độ dân It-ra-en (xem Đệ Nhị Luật 10,21; Huấn ca
50,22). Tác giả tất cả các biến cố xảy ra trong bài ca Magnificat có
danh hiệu là "Toàn năng". Trong nội dung trực tiếp Tin Mừng
Lu-ca 1-2, ở đoạn truyền tin "quyền năng của đấng tối cao"
phải đến nơi Maria (1,35). Trong câu này, Maria được hiểu như là
Thánh cung để Con Thiên Chúa đến cư ngụ. Vào phần cuối cuộc gặp
gỡ giữa Maria với thiên sứ Gabriel, Ngài lại được thiên thần
trấn an rằng : "không có gì mà Thiên Chúa không làm
được". Thiên Chúa cho biểu lộ một dấu chỉ về quyền năng của
Người nơi Elisabeth, và dấu chỉ này cũng sẽ thể hiện nơi Maria.
Khi tuyên xưng Thiên Chúa là "Đấng Toàn Năng", Maria nói
trước nguyên lý của Tin Mừng Lu-ca "điều gì con người không
thể làm thì Thiên Chúa có thể làm" (Lc 18,27). Bài Magnificat nêu
lên việc Thiên Chúa làm những điều lớn lao nơi Maria, như thế có
nghĩa là xác quyết rằng Đức Giêsu đến là một việc làm cao cả
của Thiên Chúa, một cao điểm ưu thế trong lịch sử cứu độ.
3.2. Danh Người là thánh.
Thành ngữ trong bài ca Magnificat bắt nguồn từ các bản văn Cựu
ước. Nó xác quyết long trọng tính siêu việt của Thiên Chúa và
nhất là nội dung Thánh của Người. Chúng ta cũng biết rằng tước
hiệu "thánh" trong Cựu ước chủ yếu nói về Thiên Chúa,
nhưng cũng áp dụng (một cách tương đối) cho những gì dâng hiến cho
Người, đặc biệt là dân của Chúa.
Lu-ca đã áp dụng tĩnh từ này cho Đức Giêsu trong lời tuyên bố
quan trọng về bản tính Đức Kitô ở lúc truyền tin (1,35). Maria bấy
giờ là người đầu tiên tiếp nhận điều Thiên Chúa mặc khải nơi
Đức Giêsu. Đức Giêsu là "thánh" vì Ngài là chủ thể
hành vi nhân hậu của Chúa. Hành động Thiên Chúa cứu độ trong
Cựu ước được tiếp nối trong Tân ước.
3.3. Và lòng khoan hậu của Ngài từ đời này đến đời kia đối
với những ai kính sợ Người.
Maria đầy lòng tin, đón nhận và chuyển đạt lòng khoan hậu của
Chúa qua hành động làm cho Đấng Thiên Sai đến. Trong bài ca, lòng
Thiên Chúa khoan hậu đặc biệt hướng đến những ai kính sợ Chúa.
Trong Kinh Thánh, lòng kính sợ Thiên Chúa là nền tảng tất cả mọi
thái độ tôn giáo chân thật. Đây không phải là sự sợ hãi
Thiên Chúa, nhưng là sự nhìn nhận sự kiện rằng Thiên Chúa vượt
lên trên sức lực con người và Người không thể tùy thuộc vào
sự uốn nắn của tài trí kẻ hữu hạn.
Bài ca Magnificat trước hết nhấn mạnh đến ân huệ lòng khoan hậu
nơi Thiên Chúa đã ban cho Maria, kẻ đại diện cho It-ra-en. Ngài là
hiện thân tiêu biểu việc Thiên Chúa thực thi lòng yêu thương đối
với con người. Rồi nhờ Ngài, ơn cứu độ được thực hiện
hoàn thành những lời hứa đối với tổ tiên. Cuối cùng sứ
điệp áp dụng cho tất cả những ai tin vào Đức Giêsu là Đấng
Cứu Độ. Đức Kitô là kiểu mẫu lòng khoan hậu của Thiên Chúa cho
muôn muôn đời, để mọi người nhờ Ngài mà kết thành dân mới
của Thiên Chúa.
C) Thiên Chúa bênh vực những người bé nhỏ.
Maria nhìn ngắm tình trạng biến chuyển đạo đức sắp được hoàn
thành. Những kẻ kiêu căng, những người quyền thế và những
người giàu có bị hạ xuống, trong khi những người khiêm hạ và
người nghèo được nâng lên. Trong lời cảm ơn, Maria, người nữ
Sion, tung hô Thiên Chúa toàn năng thực thi lòng khoan hậu và đảo
ngược hoàn cảnh với sự xuất hiện của Đức Kitô.
C.1. Luca 1,51 : "Ngài đã làm (thực thi) sức mạnh của cánh tay
Người. Người làm rã tan những người kiêu căng trong tâm tưởng
của họ.
Trong bài Magnificat, Luca dùng thành ngữ "cánh tay Người" để
xếp sự Đức Giêsu xuất hiện ngang tầm với những biểu dương vĩ
đại quyền năng Thiên Chúa như sự Tạo dựng, Xuất hành và thời
chung mãn. Thật thế, biến cố Đấng Thiên Sai nơi Giêsu là một giải
thích cho It-ra-en, đồng thời mở ra những thời mới cho vũ trụ.
Phần hai câu 51 cho chúng ta hay việc Chúa can thiệp là "làm rã tan
những kẻ kiêu căng nơi tâm lòng họ". Thành ngữ này cũng
rất quen thuộc với văn chương Cựu ước (Sáng thế 11,1-9; Đệ Nhị
luật 28,64; 30,3; Giê-rê-mi-a 9,15; 13,24; 18,17; 23,1; 30,4...). Câu này cần
được giải thích dưới ánh sáng Cựu ước. Nó cho thấy Thiên
Chúa hành động nhằm hạ bệ những ý đồ cao ngạo của những
người chống lại Thiên Chúa, đó là những kẻ kiêu căng. Thường
trong Cựu ước họ được diễn tả như là những kẻ thù của
Thiên Chúa. Trong thư gửi người Roma, Phaolô xếp kẻ kiêu căng vào
danh sách vào tội của kẻ ngoại đạo (Rô-ma 1,30).
Trong Tin Mừng về thời thơ ấu, Maria được trình bày như là kẻ
khiêm tốn tuyệt vời. ễ đoạn truyền tin và ở phần đầu bài
Magnificat cho thấy lòng khiêm nhượng này rõ ràng dựa vào lòng tin
tưởng nơi Thiên Chúa. Maria cũng được tuyên dương là "kẻ có
phúc" vì lòng khiêm tốn (Lc 1,48b). Qua Maria, nỗi hân hoan này trải
tràn trên tất cả những người khiêm tốn (Luca 1,52). Thiên Chúa
dùng sức mạnh để cứu người khiêm tốn nghĩa là những kẻ đặt
niềm tin vào Người, nhưng đồng thời Thiên Chúa cũng giơ tay làm
tan rã quân thù. Hình ảnh Thiên Chúa dường như thiên vị, nhưng
Thiên Chúa yêu mọi người, vì thế Người đứng lên chống lại
những kẻ dùng bạo lực, của cải, hoặc lòng vị kỷ mà phá hại
đời sống kẻ khác. Nếu Người lật nhào những kẻ quyền thế
khỏi ngai của họ, và làm tan tác những kẻ kiêu căng, là để cho
họ tìm lại nhân tính của chính họ.
C.2. Luca 1,52-53 : Ngài đánh đổ những người quyền thế khỏi ngôi
(của họ) và nâng người khiêm tốn lên; những kẻ đói khát,
Ngài thỏa mãn (họ) bằng của cải, những kẻ giàu, Ngài đuổi (họ)
đi hai tay không có gì.
Các câu 52 và 53 xác quyết Thiên Chúa đến cứu giúp những kẻ
nghèo và những kẻ bé bỏng chống lại những kẻ giàu và quyền
thế.
C.21. Ngài lật nhào những người quyền thế khỏi ngai và nâng
người hèn mọn lên.
Những chữ trong đảo từ này nhắc ta nhớ lại từ ngữ được
dùng ở trong các câu 48-49. Đấng (quyền năng) (câu 49) đã làm nên
những việc cao trọng cho Maria nhưng ở đây Người lật nhào những
người tự nghĩ mình "là những kẻ quyền năng" (câu 52a)
nhưng Đấng đã "nhìn đến phận hèn của nữ tì Ngài" (câu
48) thì cũng là Đấng "nâng những kẻ hèn mọn" lên. (Câu
52). Câu này cống hiến cho chúng ta hai hình ảnh: những kẻ quyền
năng mà ta dịch đúng hơn là kẻ có quyền thế (54) và ngai (55) là
dấu chỉ tượng trưng cho sức mạnh của những kẻ có quyền thế
này. Chính Thiên Chúa nâng cao kẻ hèn mọn. Việc nâng cao này đã
được Anna ngợi ca trong bài tụng ca : "Chúa sẽ phán xét toàn
trái đất. Ngài sẽ ban cho vua của Ngài quyền năng, Ngài sẽ nâng cao
trán của Đấng Thiên Sai Ngài gửi đến" (1Sam 2,10). Đề tài về
sự Thiên Chúa ưu đãi đối với kẻ có lòng khiêm hạ cũng
được thấy trong câu truyện của ông Gióp. Trong bài thuyết của
mình, Eliphaz xin ông Gióp đừng phàn nàn nữa. Thiên Chúa đến giúp
ông vì Người chỉ sửa dạy những kẻ trung tín hầu chữa lành họ
và cho họ biết đến hạnh phúc (Gióp 5,11).
Chính Chúa nâng cao kẻ hèn mọn và đôi khi nâng họ lên đến tận
quyền năng Chúa tể. Maria ở vào trong hàng ngũ những kẻ hèn mọn
và nghèo. Thiên Chúa đã nhìn đến cô trong "lòng khiêm cung"
(Lc 1,48). Đồng thời Maria cũng là mẫu mực những người nghèo mà
Thiên Chúa nâng lên (Lc 1,52). Do đó Maria lòn mình vào những kẻ
nhỏ mọn để trở thành kiểu mẫu tuyệt vời những người nghèo
của Thiên Chúa. Nơi Maria, hoàn thành sự việc hèn mọn được nâng
lên và nơi niềm hy vọng của họ được thỏa mãn.
C.22. Những người đói khát, Ngài thỏa mãn bằng của cải
Những kẻ đói khát có nghĩa là "đói" hay "bị cơn đói
làm cồn cào". Động từ nhằm chỉ người không có gì để nuôi
sống. (Sáng thế 41,45; I-sa-ia 8,21; 2Vua 7,12; Thánh vịnh 107,36.41; Gióp
24,4.10; To-bi-a 4,7.16). Những người đói khát là những người nghèo
không có phương tiện cần thiết để sống và không cách gì có
được lương thực tối thiểu nuôi thân.
Câu 53 của bài Magnificat chắc chắn nhằm nói đến những người
nghèo này. Những người biết rằng lương thực không phải chỉ là
của vật chất, nhưng tin mừng cho họ còn ở bình diện tâm linh. Sự
đói khát tinh thần tiếp nhận một sự mở ra và sẵn sàng tiếp
nhận Thiên Chúa, cũng như khiêm cung trước mặt Người. Trong Tin
Mừng thời thơ ấu, Lu-ca giới thiệu những khuôn mặt mẫu về
những người nghèo : Da-ca-ri-a và Elisabeth, Si-mon và An-na và nhất là
Maria. Bài Magnificat là bài ca về lòng nghèo khó. Nghèo khó đó,
hầu như về mặt kinh tế, nhưng nó cũng liên quan đến những thái
độ nội tâm. Người nghèo là người quay về với Thiên Chúa và
không nương cậy vào một trợ lực nào về phía con người. Khi hát
lên rằng Thiên Chúa đã đổ đầy của cải cho người đói khát,
Maria loan báo việc Thiên Chúa làm bênh đỡ cho người nghèo khó.
Và lời loan báo đó sẽ kéo dài trong tương lai, từ nay mời gọi
những người nghèo hãy hy vọng vào Thiên Chúa. Thiên Chúa trung tín
và quyền năng hơn con người. Sự kiện đó đã được minh chứng
trong Cựu ước. Khi dân kêu đến Thiên Chúa, Ngài hành động để
cho họ hết đói: "Người đã ban cho họ bánh từ trời để cho
họ khỏi đói và đã làm cho nước từ tảng đá phun lên để
giải cơn khát của họ" (Lu-ca 9,15). Bài Magnificat mở ra một niềm
hy vọng cho kẻ nghèo như một trong những câu Cách Ngôn đã từng
hát: "Chúa không cho phép kẻ công chính phải đói" (10,3).
Đây không phải là một sự vay trả, nhưng trong Magnificat, Lu-ca muốn
tuyên dương đặc ân những người nghèo; và Maria, trong lời tạ ơn,
xác quyết về niềm hy vọng cho một tương lai tốt đẹp hơn, dành cho
những ai thiếu thốn những gì cần thiết để sống.
C.23. Những người giàu, Ngài đuổi đi, tay không.
Những người giàu ở đây có nghĩa là những người mải làm
giàu. Thực ra, họ tạo nên một lớp người giàu với tâm tưởng
riêng. Trong bài ca Magnificat, Lu-ca mạnh dạn quả quyết rằng những kẻ
làm giàu bất chính mà không chia sẻ thì sẽ đuổi về tay không. Maria
hát lên rằng Thiên Chúa đuổi những người giàu đi không có gì
trong tay. Tình trạng đảo lộn này diễn tả rằng ngay từ bây giờ
những người giàu có không có của cải thật sự bền vững vì
họ không thể hưởng đến những ơn ích cứu độ. ễ đây người
giàu giống như người Pha-ri-siêu cho mình đạo hạnh, không màng xin
Thiên Chúa một điều gì nữa (Luca 18,9-18). Vì thế những người
giàu không tiếp nhận được ân sủng nào vì họ tin họ không cần
gì cả.
D. Lc 1,54-55 Thiên Chúa bênh đỡ Abraham và con cháu người.
Những câu 54-55 được xem là phần kết. Maria suy gẫm sự kiện đã
hoàn thành trong mình. Lòng Thiên Chúa khoan hồng thực hiện những
lời hứa đối với dân It-ra-en. Với từ "It-ra-en" ghi ở
câu 54, lối dùng chữ nói đến "chủng tộc" đó xác định
việc Thiên Chúa chọn "nơi" hành động của Ngài.
D.1. Ngài đã giúp It-ra-en tôi tớ Người.
Từ ngữ Hy Lạp "tôi tớ" mà ta thường dịch cũng có thể
chỉ một đứa trẻ (Mát-thêu 17,18; Lu-ca 2,43; 9,42; Công vụ 20,12) một
đứa con (Mát-thêu 8,6; Gio-an 4,51) hay một người con gái nhỏ (8,52).
Trong câu Luca 7,7 chữ này được ông đội trưởng La mã nói đến
người "nô lệ" của ông. Lu-ca 1,54 từ này được dùng để
nói đến It-ra-en. Thành ngữ đó thông dụng trong Cựu ước. Thật
thế "tôi tớ" thường dùng để chỉ một người được
Chúa chọn hầu trở nên "tôi tớ Thiên Chúa". Danh xưng này
bấy giờ trở thành một tước hiệu danh dự vì "Thiên Chúa chỉ
định đầy tớ Người", kẻ được gọi để hợp tác thực thi
ý định của Người. Tước hiệu đó gán cho những người đóng
một vai trò quyết định trong lịch sử dân Thiên Chúa (xem Sáng thế
32,11; Xuất hành 14,31; Dân số 12,7; Đệ Nhị luật 34,5; 1Các vua 8,56...).
Cuối cùng ta thấy Cựu ước thường gọi It-ra-en là tôi tớ Chúa.
Trong một bài tụng ca tạ ơn Thiên Chúa của vũ trụ và đấng bênh
đỡ cho It-ra-en, tác giả thánh vịnh nhắc lại rằng lòng Chúa khoan
hậu thúc đẩy Người có những hành động tác tạo trời đất và
điều hành lịch sử "Để lại cho It-ra-en, tôi tớ Người làm gia
sản, vì Người muôn đời luôn trung kiên" (136,22). It-ra-en được
chọn để phục vụ Thiên Chúa. Công việc phục vụ đó không phải
chỉ hoàn thành những việc phụng tự nhưng là "một tổng hợp
những tâm tình và cách suy nghĩ, của cả con người mình, một thái
độ và một cuộc sống linh hoạt bởi một đức tin sâu xa, một tình
cảm tôn giáo thấm nhập cả đời sống, trong sự biến mình, tận
tụy, vâng lời cần mẫn, hoàn toàn trung tín" (Georges Auzou).
D.2. (Để) nhớ lại lòng khoan hậu.
Dầu It-ra-en tôi tớ không phải khi nào cũng trung tín, nhưng Thiên
Chúa vẫn không bỏ vì Thiên Chúa đã nhớ lại lòng khoan hậu của
mình. Trong Cựu ước, động từ "nhớ lại" là từ ngữ
kiểu mẫu gắn liền với Giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người
đã chọn. Một mặt, Thiên Chúa đòi hỏi It-ra-en, nhớ lại những
ân huệ đã qua, hoặc những điều luật để xin It-ra-en trung tín và
vâng phục. Mặt khác, It-ra-en cũng xin Thiên Chúa nhớ lại Giao ước,
những lời Người hứa để xin bênh đỡ mình.
Động từ "nhớ lại" xuất hiện hai lần trong Luca 1-2 và nhất
là trong các bài ca ngợi có những liên hệ về ngữ vựng của
Cựu ước. Động từ "nhớ lại" do đó, gắn chặt với sự
kiện Thiên Chúa cứu độ được tán dương qua biến cố Đấng Thiên
Sai đến. Từ nay lòng Thiên Chúa khoan hậu được thực hiện cho tôi
tớ It-ra-en trong Đức Giêsu. Thật vậy, trong Tin Mừng thời thơ ấu,
Lu-ca trình bày Đức Giêsu là sự cứu độ của It-ra-en. Trong buổi
truyền tin, Gabriel giải thích cho Maria rằng cô sẽ là mẹ Đức Kitô,
vua It-ra-en từng được trông đợi từ bấy lâu (Lc 1,31-33). Sau khi
Gioan Tẩy Giả sinh ra, Da-ca-ri-a cảm tạ ơn cứu độ từ Đấng Thiên
Sai (1,68-79). Trong lúc Đức Giêsu sinh ra, thiên thần báo cho các mục
đồng rằng hôm nay "trong thành của Đa-vít, một Đấng Cứu Độ
đã sinh ra cho các ngươi, đó là Chúa Kitô" (2,11). Đức Giêsu
là "niềm an ủi cho It-ra-en" (2,25) và Siméon nhận ra rằng lời
Thiên Chúa hứa đã thực hiện, vì mắt tôi đã thấy ơn cứu độ
của Người, mà Người đã dọn sẵn trước mặt mọi dân tộc, là
ánh sáng để soi dẫn cho dân ngoại và là vinh quang của It-ra-en
(2,30-32). Cuối cùng Đức Kitô là "sự giải thoát cho
Giêrusalem" (2.38). Cũng như trong buổi truyền tin, Maria ở đây là
phát ngôn cho dân It-ra-en để ca tụng Thiên Chúa. Việc Ngôi Hai nhập
thể là hiện thân, thấy trước mắt lòng khoan hậu của Thiên Chúa.
Đây là sự giải thoát dứt khoát cho con người cũng như xưa kia
Thiên Chúa đã giải thoát It-ra-en tôi tớ Người.
D.3. Như Người đã từng nói với cha ông chúng tôi, cho Abraham và
hậu duệ ông ấy đến muôn đời.
Abraham là nhân vật duy nhất được nêu đích danh trong bài Magnificat.
Ông lại xuất hiện trong bài ca của Da-ca-ri-a. Lu-ca nói đến Abraham
trong các bài ca ngợi để nhắc lại lời Chúa hứa cho tổ phụ. Tác
giả bản phúc âm thứ ba, trước tiên cho chúng ta hình ảnh Abraham
như một nhân vật lịch sử. Trong một vài đoạn, Lu-ca đưa nhân vật
Abraham vào một bối cảnh thời chung mãn (13,28 tiếp theo). Tổ phụ mang
một ý nghĩa chung mãn vì "ở với Abraham" có ý nghĩa là
chắc chắn sẽ được cứu độ vào ngày cuối cùng. Lu-ca nhấn mạnh
sự hoàn thành các lời tiên tri khi nhắc đến hình ảnh người Do
thái, chứ không được gọi là cha của những người tin như
trường hợp trong các bản văn của Phao-lô. Việc quy chiếu vào
Abraham trong bản Magnificat cũng như trong bản ca Bénedictus lấy lại mẫu
mực của các bản văn Cựu ước, nhấn mạnh đến việc Chúa làm
nhằm bênh đỡ dân Người, vì Chúa nhớ lại giao ước với các
vị tổ phụ (xem Xuất hành 2,24; 6-3-4; 32,13; Thánh vịnh 105, 8-11;
Mát-thêu 7,20).
Buổi truyền tin, ơn cứu độ được loan báo cho Maria
và từ nay nó được thực hiện. Từ miệng Maria, người thiếu nữ
It-ra-en, lời hứa cho Abraham được hoàn thành vì Maria biết rằng dân
không còn sống trong thời trông đợi đấng Thiên sai đến để mang
hành động bênh đỡ tất cả mọi người trong mọi thời đại. Ơn
cứu độ ban cho mọi người. Lu-ca đã loan báo đề tài này trong bài
ca ngợi của Siméon (Lc 2,32) "Ánh sáng để mặc khải cho dân
ngoại" (Công vụ 2,39; 3, 25-26; 13,46-47). Maria Mẹ Đấng cứu độ,
hậu duệ Abraham, ngay từ bây giờ chia sẻ lời chúc phúc đã hứa
cho tổ phụ.
Kết luận.
Chúng ta thường lầm khi nghĩ rằng hát Magnificat là để cầu nguyện
cùng Đức Maria. Magnificat là lời cầu nguyện của Đức Maria lên
Thiên Chúa. Magnificat là bài ca cứu độ vì nội dung loan báo những
mối phúc và sự đảo ngược hoàn cảnh với Đức Giêsu. Khi
xướng lên ca tụng Thiên Chúa, Maria hát lên sự cứu độ đã
hoàn thành từ bây giờ cũng như muôn thế hệ trong Giáo hội sẽ ca
tụng. Vì vậy bài ca Magnificat không chỉ là một bài ca xưa cũ nhưng
rất hiện đại. Ngày nay, rất nhiều nhóm trong giáo hội lấy bài ca
này để tiếp tục ca tụng Thiên Chúa như một chương trình cho cuộc
sống với một nhãn quan đạo đức.
Trích từ trang Ðức Mẹ, Giáo Hội Công Giáo web site