- Legio Mariae – Đạo Binh Đức Mẹ - https://daobinh.com -

Tháng Hoa: Dâng Kính Đức Mẹ Maria – Ngày 9-15

9. Đức Mẹ gương đức tin – Trang 1

10. Đức Mẹ là mẹ cậy trông – Trang 2

11. Đức Mẹ là gương kính mến Chúa – Trang 3

12. Đức Mẹ là gương yêu người – Trang 4

13. Đức Mẹ là gương đức trong sạch – Trang 5

14. Đức Mẹ là gương đức khó nghèo – Trang 6

15. Đức Mẹ là gương việc cầu nguyện – Trang 7

– o O o –

9

Ðức Mẹ là gương mạnh tin

             – Khi Sứ thần truyền tin cho Người sẽ chịu thai và sinh con, nhưng người vẫn còn trinh khiết.  Một sự mầu nhiệm cao cả vượt quá sức hiểu biết của loài người.  Nhưng Ðức Mẹ vẫn tin theo lời ấy.

            – Khi Ðức Mẹ đi thăm Bà Isave, Bà khen Ðức Mẹ rằng: “Phúc cho Bà vì Bà đã tin những điều Sứ thần”.

            – Dù Chúa Giêsu phải lánh sang nước AiCập để thoát khỏi tay độc dữ của vua Hêrôđê, Ðức Mẹ vẫn tin thật Con mình là vua cả toàn năng.

            – Dù Chúa Giêsu sống như một thường dân trong xưởng thợ Nazareth, Ðức  Mẹ vẫn tin thật Con mình vừa là người vừa là Vua cả trời đất.

            – Dù Chúa Giêsu phải chết khổ nhục bên những tay trộm cướp, Ðức Mẹ vẫn tin Con mình sẽ sống lại vinh hiển.

            Phần ta thế nào? Ta có bắt chước Ðức Mẹ, vững vàng tin theo cùng suy phục những mầu nhiệm trong đạo chăng? Có tin thật những điều Giáo Hội thay mặt Chúa dạy phải tin chăng?

            Biết bao người Công giáo còn mê tín, còn tin ở thiên văn, địa lý, ở số, ở vận, ở mồ mả đất cát, mà nghi nhờ những mầu nhiệm cao cả trong đạo.  Họ tin như kẻ rối đạo.

            Biết bao kẻ lúc được thịnh sự, thì đức tin vững vàng.  Phải bước gian chuân, họ nghi ngờ, trách móc Thiên Chúa.  Họ đổ xô đi xem bói, gieo quẻ. . . Ðức tin của họ thật mong manh.

            Ðức tin là cội rễ mọi nhân đức.  Kinh thánh dạy rằng: Ai thiếu đức tin, thì không thể đẹp lòng Thiên Chúa, và phải Chúa luận phạt.

            Lời thánh Giacôbê xưa: “Ðức tin không việc làm là đức tin chết”.

            Nhiều người tin nhưng sống như kẻ không có đức tin.  Họ tin có đời sau, có ngày xét xử, có thưởng phạt, có thiên đàng hỏa ngục, nhưng họ vẫn sống chìm đắm trong đống tội.

            Họ tin mười giới răn Thiên Chúa, tin lề luật Giáo hội, nhưng họ vẫn bê trễ đạo, vẫn hiềm thù ghen ghét, vẫn lỗi phép công bằng, vẫn mê theo xác thịt.  Ðôi khi họ làm được vài việc đạo đức, nhưng chỉ để phô trương để khoe với thiên hạ.  Công việc của họ không đưa lại kết quả gì, vì đức tin của họ đã chết.

            Vậy ta hãy xét đời sống của ta để biết rõ đức tin của ta thế nào: việc làm lời nói cách ta ăn ở sẽ chứng tỏ đức tin của ta.

            Ta hãy bắt chước các thánh tông đồ kêu xin Chúa: “Lạy Chúa xin thêm đức tin cho con”. 

           

Thánh Tích: 

Đạo Chúa êm ái…làm con Chúa muộn…

            Xưa bên Pháp có một cô gái 18 tuổi bỏ nhà ra đi nghe theo dục tình.  Cha mẹ họ hàng bắt về, nhưng cô không nghe.  Cô ta dong duổi được 10 năm, thì mắc bệnh thổ huyết.  Bấy giờ cô mới tỉnh ngộ tìm về nhà, được ít lâu thì qua đời.  Người ta thuật lại lúc cô ta nằm liệt trên giường bệnh.  Thỉnh thoảng cô tỏ vẻ buồn sầu, đôi mắt ướt lệ, cô nức nở khóc.  Cha mẹ hỏi cô tại sao khóc thì cô trả lời: “Tôi có đạo nhưng đời sống của tôi như người vô đạo, như người mất đức tin.  Mai ngày tôi đến trước tòa Chúa, sẽ bị Chúa xét xử thẳng nhặt, Ðức tin chẳng làm ích gì cho tôi, một thêm hình phạt rất nặng cho tôi.

            Ôi! Vô  phúc cho tôi!  giá như Chúa cho tôi sống được vài năm nữa, tôi sẽ làm hết mọi sự Chúa truyền dạy”.

            Rồi cô ta lại nức nở khóc.

            Trong giây phút cuối cùng, cô mới nhận rõ: Ðức tin không có việc làm là đức tin cằn cỗi không sinh ích gì cho kẻ tin.

(MB, CMC viết theo Sách Tháng Đức Bà, Hiện tại xb,1969. Mỗi ngày một bài, mỗi ngày một truyện)

10

Ðức Mẹ là Mẹ cậy trông 

 

            Nhờ lòng cậy trông vững vàng của Ðức Mẹ, các tông đồ, các giáo hữu không hề sờn lòng nản chí trong cơn bắt bớ tàn phá đạo thánh Chúa, sau khi Chúa Giêsu đã về trời.  Vì thế, trong kinh “Lạy Nữ vương” đã xưng Ðức Mẹ là “làm cho chúng con được cậy”. 

 

           Chẳng những Ðức Mẹ làm gương cho ta về sự trông cậy vững vàng mà còn giúp những ai nản lòng được vững tâm trông cậy nữa. Trong các tội, không có tội nào nguy hiểm và có thể hại ta bằng tội ngã lòng cậy trông Thiên Chúa.

            Ðó là tội Cain xưa tự bảo mình rằng: “Tội tôi nặng qúa, chẳng có lẽ nào Chúa tha cho tôi được”. Ðó cũng là tội Giuđa xưa, sau khi bán Chúa, đã đi thắt cổ chết khốn nạn.  Người mắc tội ấy khốn nạn hơn ai hết, vì nghĩ rằng : chẳng còn cách gỡ mình, cho khỏi được nữa.

            Chúng ta hãy chạy lại cùng Ðức Mẹ, Người là Mẹ nhân từ của chúng ta, Mẹ chúng ta chỉ biết thương yêu mà không muốn oán phạt ai.  Các thánh ví Ðức Mẹ như tầu Noe: tầu Noe xưa cứu sống gia đình ông.  Ngày nay Ðức Mẹ cứu chúng ta khỏi hỏa ngục.

            Trên đời, ta phải chịu đựng bao đau khổ, cố gắng, hy sinh, phần hồn phần xác.  Vậy hãy vui chịu, và phó dâng cho Chúa, và cậy trông vững vàng Chúa sẽ trả công vô cùng cho ta trên thiên đàng. 

            Lạy Mẹ, là Mẹ cậy trông xin giúp chúng con được  lòng cậy trông Chúa vững vàng, để chúng con đủ sức chịu mọi gian lao khốn khó ở đời này, để lập công hưởng phúc đời sau. Amen.

 

Thánh Tích:

Đọc kinh “Xin hãy nhớ..”.

            Hồi thánh Phanxicô còn thanh niên là một học sinh.  Chúa để ma quỉ cám dỗ Người về sự nản lòng cậy trông.

            Tự nhiên Người tự bảo: “Tội tôi nặng lắm, tôi đã mất nghĩa cùng Chúa, các việc lành tôi đều ra vô ích.  Chắc chắn tôi sẽ bị thiêu đốt trong hỏa ngục”. Ý tưởng ấy luôn luôn ám ảnh người.

            Dù đã lấy nhiều lẽ để chống trả lại ý tưởng ấy cũng vô ích.  Người lấy sự ấy làm cay cực lắm! Lại có sự này càng làm cho người đau khổ hơn nữa là lòng ra khô khan nguội lạnh, chán nản việc thờ phượng.

            Nhưng dù sao, Người không bao giờ bỏ các việc lành quen làm hằng ngày.  Người lại luôn luôn kêu van và cậy trông vào Ðức Mẹ, vì Người tin rằng Ðức Mẹ chẳng hề từ chối ai.  Người bị cám dỗ như vậy đã gần hai tháng, mà chẳng thấy giảm bớt chút nào.  Một hôm, đi học về, qua cửa nhà thờ, người liền vào nhà thờ cầu nguyện trước tượng Ðức Mẹ. Người nguyện rằng: “Lạy Thánh Nữ Ðồng Trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời…”Xin Mẹ đoái thương cứu chữa con khỏi cơn cám dỗ này”.  Rồi người lần hạt, và hứa sẽ lần hạt kính Ðức Mẹ mỗi ngày trong đời mình.

            Cầu nguyện và khấn hứa đoạn, người cảm thấy bằng yên, vui mừng, không còn áy náy lo buồn, lại được tươi tỉnh khỏe mạnh phần xác như trước.  Từ bấy giờ Thánh Phanxicô chẳng bị cám dỗ nản lòng cậy trông như xưa nữa.  Suốt đời, người hằng nhớ ơn và cầu xin Ðức Mẹ.

            Chớ gì hết mọi người chúng ta luôn luôn noi gương lành của Thánh Phanxicô như vậy. 

———————

Kinh Hãy nhớ

Lạy Thánh nữ Đồng Trinh Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.

Nhân vì sự ấy con lấy lòng trông cậy than van, chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức Mẹ, là Nữ Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trinh.

Xin Đức Mẹ đoái đến con là kẻ tội lỗi.

Lạy Mẹ là Mẹ Chúa Cứu Thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một dủ lòng thương mà nhận lời con cùng.

Amen.

11

Ðức Mẹ làm gương mến Chúa  

        

            Lửa kính mến bốc cháy trong lòng Ðức Mẹ mạnh sức đến nỗi nếu Chúa không giữ Người thì Người chẳng sống được vì vốn lửa kính mến mạnh sức làm cho người ta hao mòn kiệt sức đi dần dần.

            Sau khi Chúa Giêsu về trời, tuy xác Ðức Mẹ còn ở thế gian, nhưng lòng trí hằng đem về trời hợp cùng Chúa Giêsu và theo như nhiều thánh dạy: Ðức Mẹ hao mòn héo hắt dần vì lòng mến Chúa, chẳng phải vì già nua hay bệnh tật gì.  Ôi! cái chết êm ái hạnh phúc dường nào! Chớ gì ta được chết như vậy. 

 

        Có nhiều lẽ buộc ta kính mến Chúa: Trước hết vì Chúa là Ðấng quyền phép cao trọng đã dựng nên và gìn giữ ta, đã sai Con một xuống cứu chuộc ta, hằng ban ơn giúp sức cho ta tránh tội làm lành, lại hứa ban phúc thiên đàng cho ta.  Bấy nhiêu lẽ chưa đủ giục ta kính mến Chúa ư? Bấy nhiêu ơn trọng Chúa ban, chưa đủ để ép ta trả nghĩa ư.  Vậy phải xét: xưa nay ta kính mến Chúa thế nào? 

            Lạy Mẹ Maria chúng con khô khan nguội lạnh mê tham của cải, vui hèn thế gian, chúng con còn kém lòng mến Chúa biết bao.  Vậy lạy Mẹ, xin Mẹ hãy lấy tàn lửa kính mến trong lòng Mẹ để đốt cháy lòng chúng con kính mến Chúa và Ðức Mẹ ở đời này và được yêu mến mãi mãi trên thiên đàng. 

 

Thánh Tích: 

            Xưa trong nước Pháp, có một võ quan, cha mẹ mất sớm và chẳng được dạy dỗ gì về đạo Thiên Chúa, nên ông không biết gì về ThiênChúa, không thuộc kinh và cũng chẳng biết gì về kính mến Thiên Chúa nữa.  Ông tòng quân từ lúc 18 đến 50 tuổi.

            Lúc mãn khóa, ông về quê.  Một hôm đi đường, ông vào trọ trong nhà người bạn đạo đức sốt sắng.  Hôm sau là chủ nhật, người bạn rủ ông đi lễ, ông liền nhận lời, cốt đi cho đỡ buồn.  Ông đến nhà thờ lúc bổn đạo đang làm việc kính Ðức Mẹ và sau đó ông được nghe một linh mục giảng về lòng nhân lành của Ðức Mẹ.  Ông chú ý nghe và lấy làm vui lắm.

            Chủ nhật sau, ông tự ý đi lễ cốt ý để nghe giảng về Ðức Mẹ và xem ảnh tượng Người.  Dần dần ông thấy lòng mình mộ mến Ðức Mẹ.  Nhờ lòng Ðức Mẹ thương con chiên lạc, soi sáng cho ông ăn năn trở lại.  Sau đó, ông xin học đạo.  Ngày thứ năm tuần thánh năm ấy, ông được chịu lễ lần đầu.  Linh mục giải tội cho ông kể lại rằng: “Cách ông khiêm nhường hối cải làm tôi cảm động không cầm được nước mắt”.  Xưng tội chịu lễ xong, ông thấy bằng yên vui mừng quá và kêu lên rằng: “Ôi! tôi không ngờ đạo Thiên Chúa êm ái và làm cho người ta hoan lạc dường nào.  Ôi ! bấy lâu không theo đạo thì tai hại biết bao!”

            Từ đấy ông giữ đạo rất sốt sắng và hằng cảm tạ Ðức Mẹ liên cho đến trọn đời. 

12

Ðức Mẹ làm gương đức yêu người 

 

          Cứ bản tính tự nhiên, Thiên Chúa phú cho người mẹ lòng yêu con rất bao la, dù là đứa con rất ngỗ nghịch.  Ðức Mẹ là Mẹ Chúng ta, Người đã nhận chúng ta là con, thì đức Mẹ không thương yêu chúng ta sao được. 

            Thánh Inhaxiô tử đạo nói: “Khi Ðức Mẹ còn sống ở thế gian, Người đã tỏ lòng thương yêu người ta hết sức.  Thấy ai phải đau khổ ốm đau coi như chính mình phải những nỗi khổ sở ấy.  Ai gặp sự rủi ro, Người liền thăm viếng yên ủi và cầu cho người ấy”.

            Ở thế gian mà Ðức Mẹ đã thương yêu loài người chúng ta dường ấy, phương chi bây giờ Người đang hưởng hạnh phục vì có quyền cao chức trọng trên trời, lẽ nào chẳng thương xem giúp đỡ chúng ta hơn. 

Theo gương Ðức Mẹ, ta hãy thương yêu người đồng loại như chính mình ta.  Ta hãy yêu người ta vì Thiên Chúa.  Ta hãy thương yêu những kẻ túng nghèo, đau khổ, tàn tật, hãy thương yêu người thù địch của ta.  Vì mọi người đều là con Thiên Chúa.  Ta hãy thương yêu thật trong lòng, trong việc làm, trong lời cầu nguyện. 

            Lạy Mẹ Maria, Mẹ thương yêu chúng con quá bội.  Vì thương yêu, Mẹ đã phó Con rất yêu quý Mẹ chịu chết để cứu chúng con.  Xin Mẹ giúp chúng con hiểu giá trị của đức yêu người, để chúng con noi gương Mẹ mà thương yêu mọi người vì lòng kính mến Chúa. 

 

Thánh Tích: 

Nữ tu bỏ dòng, Mẹ Maria thay thế.

            Truyện này do thánh Ligoriô kể.  Phúc, một thiếu nữ xinh đẹp nết na đạo hạnh, xin vào tu dòng.  Chị làm gương tốt cho chị em, nhất là lòng mến Ðức Mẹ.  Mẹ bề trên thấy chị là người đạo đức hơn ai thì trao công việc giữ nhà thờ cho chị.  Chị Phúc ngày thêm nhân đức và lòng mến Chúa yêu người.

            Bấy giờ có một chàng thanh niên sang trọng hay vào nhà thờ đọc kinh cầu nguyện.  Chàng thấy chị Phúc xinh đẹp nết na thì đem lòng luyến ái.  Từ đó chàng dùng dịp đọc kinh để được xem thấy chị Phúc, lại cố tìm để gần gũi trò chuyện với chị nữa.

            Ban đầu chị Phúc thấy chàng thanh niên đó nhìn ngắm mình, thì lấy làm khó chịu và khinh ghét lắm, nhưng dần dần xiêu lòng và liều mình trò truyện cùng chàng nọ.  Chẳng bao lâu, 2 bên yêu nhau, quyết đem nhau đi nơi khác. 

            Khi chị Phúc sắp trốn nhà dòng thì đem chìa khóa nhà thờ để dưới chân tượng Ðức Mẹ rồi quỳ gối thở than rằng: “Lạy Mẹ nhân lành xin Mẹ thương tha thứ sự bội bạc của đứa con tội lỗi này.  Con không đáng làm con Mẹ nữa, đây con trao trả chìa khóa, áo nhà dòng và mọi việc làm cho Mẹ”. Rồi chị mở cổng ra đi theo tiếng gọi của dục tình.

            Nhưng khốn thay hoan lạc thế gian thật mau tan như mây khói .  Cặp uyên ương ấy đưa nhau đi ở một phương xa, tận hưởng vui sướng xác thịt được 15 năm thì lại chán ghét nhau.

            Một hôm Phúc ra chợ gắp bà mua bán cho nhà dòng xưa (Phúc biết bà ta mà bà ta không nhận ra Phúc).  Phúc liền hỏi: “Thưa bà, bà có biết chị  Phúc không?” Có, bà kia đáp, tôi quen biết chị ấy đã lâu: chị ấy là người đạo đức nhất nhà dòng, hiện nay chị đang giữ việc coi nhà thờ, mở cửa cho người ta vào cầu nguyện.  Phúc nghe nói rất bỡ ngỡ, định tâm tàng hình trở về nhà dòng xem hư thực thế nào?

            Lúc đến nhà dòng, cô Phúc nói với người gác cổng: “Bác làm ơn cho tôi gặp chị Phúc”.   Chờ một lát, người gác cổng trở ra nói với Phúc rằng: “Cô Phúc sắp ra đấy”,rồi y trở vào.  Bấy giờ Phúc trông lên, thấy Ðức Mẹ ăn vận như tượng Ðức Mẹ trong nhà thờ lúc chị trao chìa khóa, áo nhà dòng mười lăm năm về trước.  Thấy thế, chị sợ hãi bối rối quá, nhưng Ðức Mẹ bảo rằng: “Phúc con ơi! Ðã 15 năm nay, con bỏ nhà dòng, Mẹ đã phải trá hình làm mọi việc thay cho con, để giữ tiếng tốt cho con, và bây giờ con hãy lấy chìa khóa, nhà dòng này và lại tiếp tục công việc xưa.  Con hãy ở lại trong nhà dòng mà ăn năn sửa mình lại, Chúa sẵn lòng tha thứ cho con; con hãy an lòng, tội con chưa ai biết cả”.  Nói đoạn Ðức Mẹ biến đi.

            Chị Phúc thấy Ðức Mẹ thương mình dường ấy, thì vui mừng nước mắt dàn dụa và quyết tâm vâng lời Ðức Mẹ trở vào dòng và từ đấy hằng ăn năn đền tội mình cho đến chết.  Lúc hấp hối, chị tỏ mọi sự trước sau để thiên hạ muôn đời ca tụng lòng nhân lành Ðức Mẹ đối với loài người. . . .

13

Ðức Mẹ là Mẹ Trinh Khiết 

 

 

 

        Thời Ðức Mẹ, người đời khinh chê người giữ mình khiết trinh.  Các thiếu nữ Do thái đều kết bạn cả, và ai không có con thì người đời cho là hạng người bất hạnh.  Vì Chúa Giêsu chưa xuống thế dạy cho người ta biết quí trọng đức trinh khiết.

 

            Khi Ðức Mẹ ở trong đền thờ Giêrusalem, nhờ Chúa soi sáng.  Người hiểu nhân đức ấy rất trọng và đẹp lòng Chúa, nên dù thiên hạ chê cười, Ðức Mẹ cũng quyết khấn giữ mình khiết trinh trọn đời.

 

            Vì thế, thánh Bônaventura gọi Ðức Mẹ là Ðấng tiên phong các thánh trinh khiết, vì Người khấn giữ mình trinh khiết trước hết mọi người.  Người qúi trọng nhân đức này đến nỗi thà mất chức làm Mẹ Con Thiên Chúa chẳng thà mất đức trinh khiết.  Khi Sứ thần Gabriê truyền tin Người sẽ thụ thai sinh Chúa Giêsu, thì Người không vui mừng ngay và cũng không nhận lời Sứ thần ngay, nhưng Người thưa rằng: “Tôi đã khấn giữ mình khiết trinh, thì còn chịu thai và sinh con làm sao được?”

 

            Sứ thần thưa lại: “Bà thụ thai sinh con không theo thói người đời, nhưng bởi phép Chúa Thánh thần, nên dù sinh con, bà vẫn còn đồng trinh”.

 

            Ðức Mẹ mới ưng nhận và đáp lại: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi vâng lời Sứ thần truyền”.

 

            Ðể ca ngợi Ðức Mẹ Trinh khiết, Giáo hội đã mượn lời Kinh thánh: “Maria, Mẹ tốt đẹp mọi bề, Mẹ chẳng vương bóng tội; Mẹ đẹp hơn ánh trăng, sáng hơn mặt trời.  Mẹ là hoa huệ trắng mọc giữa bụi gai”.

 

            Chẳng những Ðức Mẹ trinh khiết hơn mọi người thế gian mà còn hơn các thiên thần, vì thế Ngôi Hai Thiên Chúa đã chiếm lòng Người làm bàn thờ ngự chín tháng tròn. 

 

 

 

             Thánh Augustinô nói: “Người trinh khiết sẽ là thiên thần dưới đất”.  Thiên Chúa không buộc ai ở trinh khiết, nhưng buộc mọi người giữ đức ấy trong bậc mình, người ở bậc vợ chồng, phải giữ nghĩa vợ chồng cùng nhau ăn ở cho xứng đáng là con cái Chúa, đừng theo xác thịt ăn ở như loài vật.

 

            Bấy lâu nay, ta có giữ đức sạch sẽ trong bậc mình không, biết bao lần ta mê theo xác thịt, làm dơ bẩn linh hồn.  Vậy ta hãy quyết tâm hối cải và thưa cùng Mẹ.           

 

            Lạy Mẹ Maria, Nữ vương các thánh trinh khiết, gương mẫu những ai muốn giữ nhân đức trinh khiết.  Xin Mẹ giúp chúng con kìm hãm xác thịt, để chúng con giữ linh hồn trong trắng đáng làm con Mẹ ở đời này và đời sau vô cùng.   

 

 

 

Thánh Tích: 

 

Quí đức trinh khiết…

 

            Nhân dân sống hai bên chân núi Anpơ (Alpes) là những người hiền lành, ngay thẳng, đạo đức.  Hồi hai nước Pháp và Áo giao chiến dân này phải khổ sở thiệt hại rất nhiều.  Ðàn bà phụ nữ phải ẩn tránh vào rừng núi cho khỏi quân giặc hãm hiếp.  Maria, một cô gái 18 tuổi, chưa kịp trốn đi, bỗng có quân Áo xông vào nhà định bắt.  Cha của Maria chạy ra ngăn cản bị chúng đâm chết tại chỗ.  Maria sợ hãi, thà chết chẳng thà thất trinh, chạy lên một ngọn đồi.  Thấy quân giặc tróc nã đến gần hết đường trốn chạy.  Maria cậy trông Ðức Mẹ, ngước mắt nhìn lên trời và nguyện rằng: “Lạy Mẹ Maria, Nữ vương các thánh trinh khiết, xin cứu thoát con”.  Nói đoạn, Maria tự đỉnh đồi gieo mình xuống.  Quân giặc thấy cô gái liều thân như vậy thì kinh sợ.  Chúng ngỡ rằng Maria vỡ đầu gẫy cỗ, nát thịt gẫy xương.

 

            Ôi! ngợi khen lòng nhân lành Ðức Mẹ chẳng bỏ lời những ai cậy trông Người.  Quân giặc phải bỡ ngỡ biết mấy, khi nhìn xuống chân đồi, thấy Maria đang bình tĩnh quì gối cầu nguyện.  Thấy sự lạ lùng làm vậy, chúng về trại, chúng kể lại phép lạ chính mắt đã thấy cho anh em đồng ngũ nghe. . .  Nhờ vậy, từ hôm ấy quân lính Áo không đi hãm hiếp dân chúng nữa.

 

            Còn Maria, tạ ơn Ðức Mẹ đoạn, cô liền vào đồn lính Pháp kể sự lạ Ðức Mẹ đã cứu mình. Ai nấy đều ca ngợi Ðức Mẹ và xây một bàn thờ ở chân đồi, chỗ Maria gieo mình xuống, để ghi dấu muôn đời lòng nhân từ Ðức Mẹ đối với con cái trông cậy Người.

14

Ðức Mẹ làm gương đức khó nghèo

 

            Từ thủa nhỏ, Ðức Mẹ đã hiểu biết giá trị đức khó khăn, nên Người khấn giữ nhân đức ấy từ lúc còn thơ ấu.  Theo linh mục Casiniô: Ðức Mẹ thuộc dòng họ vua Ðavit, nên Người dâng vào đền thờ và làm phúc cho kẻ khó khăn, chỉ giữ lại một phần nhỏ để nuôi mình.

            Chính Ðức Mẹ đã nói sự ấy cho thánh nữ Brigitta rằng: “Mẹ đã khấn giữ đức khó khăn từ thuở nhỏ, của cải cơ nghiệp ông cha để lại, Mẹ đã phát cho người nghèo khó cả”.

            Thánh Giuse, bạn Người cũng là người khó khăn.  Vàng bạc ba vua dâng lúc sinh Chúa trong hang Belem, Người cũng dùng để giúp đỡ người nghèo đói.

            Khi dâng Chúa Con vào đền thờ, Ðức Mẹ theo thói người túng nghèo, lấy đôi chim câu để chuộc con.

            Chẳng những Ðức Mẹ không xấu hổ, không giấu mà còn muốn người đời biết mình là người nghèo khó nữa.

            Lúc sinh Chúa Giêsu, khi đem Người trốn, Ðức Mẹ đã chịu thiếu thốn mọi sự.

            Sau khi Chúa về trời, Ðức Mẹ sống một đời thiếu thốn với môn đệ Gioan.  Khi chết chỉ có áo cũ trối lại cho chị em họ mà thôi. 

 

            Người đời hay khinh chê những người nghèo khó.  Tục ngữ rằng: “Người đời chuộng của chuộng công.  Nào ai có chuộng tay không bao giờ”.

            Thật, chẳng nhân nghĩa gì hơn nhân nghĩa tiền.

            Thói đời thì thế, nhưng Chúa Giêsu, là Chúa của mọi vật thì trái hẳn lại.  Người phán: “Phúc cho người khó khăn, vì Thiên đàng là của họ”.

            Chẳng những Chúa khen cùng chúc phúc cho người khó khăn mà chính Chúa đã sống cuộc đời khó khăn hơn ai hết, từ khi sinh trong hang đá Belem, đến lúc chết gục trên thánh giá, không còn một tấm vải che thân.

            Vậy nếu ta gặp bước khó khăn, ta hãy lấy làm vinh dự vì được sống cuộc đời như Chúa và Ðức Mẹ xưa.      Nếu Chúa ban cho ta giầu có dư dật, ta đừng đem lòng trìu mến quá lẽ.  Hãy dùng nó mà giúp đỡ kẻ bần hàn,  Hãy dùng nó như chiếc thang giúp ta bước lên thiên đàng.  Ai làm phúc cho người nghèo khổ, ấy là cho Thiên Chúa vậy, sau này Chúa sẽ trả lại bội hậu trên thiên đàng. 

            Lạy Mẹ, xin Mẹ giúp chúng con sống cuộc đời khó khăn, không mê tham của cải hư hèn, một biết dùng nó cho đẹp lòng Chúa và giúp ích cho hồn và xác chúng con. 

 

Thánh Tích: 

Thánh  Mactinô giúp người nghèo.

            Hồi thánh Mactinô còn thanh niên và chưa trở lại đạo: thời kỳ tại ngũ, đóng ở tỉnh Ambianô (nước Pháp), gặp một người hành khất tả tơi.  Y xin Mactinô chiếc áo vì đang mùa đông giá lạnh, Mactinô thấy y rét run cầm cập khốn nạn quá, động lòng thương.  Nhưng tiền không có, Mactinô liền rút gươm cắt đôi áo đang khoác cho y một nửa.

            Ðêm sau, lúc đang ngủ, Mactinô thấy Chúa Giêsu mặc nửa chiếc áo khoác, đã cho người hành khất hôm trước, hiện ra cùng mình có các sứ thần chầu chực chung quanh.  Ðồng thời nghe thấy Chúa nói cùng sứ thần: “Nửa áo này, là của Mactinô, chưa được rửa tội đã cho ta đấy”.  Nói đoạn Chúa biến đi. 

            Bấy giờ, Mactinô hiểu biết ngay: làm phúc cho người nghèo khổ cũng là như giúp đỡ  chính Chúa Giêsu vậy.

            Sau đó nhờ ơn Chúa giúp, Mactinô chịu rửa tội, rồi từ biệt thế gian dâng mình cho Chúa sau làm giámmục, khuyên được nhiều người trở lại đạo.  Mactinô sống thánh thiện, sau được phong thánh và làm nhiều phép lạ.

            Phần chúng ta có hết tình thương giúp kẻ nghèo khổ không? 

15

Ðức Mẹ làm gương việc cầu nguyện 

 

            Ðời Ðức Mẹ là đời cầu nguyện liên lỉ.  Lúc thức lúc ngủ, khi vui khi buồn, không lúc nào Ðức Mẹ thôi hướng lòng trí về Thiên Chúa.

Hồi lên 3 tuổi, Người dâng mình trong đền thờ cho dễ đọc kinh cầu nguyện đêm ngày.  Khi Sứ thần truyền tin cũng là lúc Ðức Mẹ đang cầu nguyện.  Lúc Chúa Giêsu sống lại đến yên ủi Ðức Mẹ thì cũng là lúc Người đang cầu nguyện.  Lại khi Chúa Thánh Thần hiện xuống thì Ðức Mẹ cũng đang cùng các tông đồ cầu nguyện nữa.

            Thánh Augustinô nói: “Cầu nguyện là chìa khóa mở cửa thiên đàng”.  Thánh Anphongso Ligoriô lại quả quyết: “Ai cầu nguyện, sẽ rỗi linh hồn, ai không cầu nguyện, thì dễ mất linh hồn.”  Bà thánh Têrêsa mẹ nói: “Ai không cầu nguyện thì tự mình đi xuống hỏa ngục, không cần ma quỉ nào đẩy nó vào”. Vậy, ta muốn cứu linh hồn mình thì phải noi gương Ðức Mẹ mà cầu nguyện.  Cầu nguyện liên, cầu nguyện sốt sắng và theo ý ngay lành.

            Buổi sáng ta hãy cầu nguyện, vì lời nguyện lúc này như là của nuôi linh hồn mạnh sức chiến đấu cùng ma quỉ và lập công. Buổi tối, trước khi ngủ ta hãy ép mình đọc kinh để cảm tạ Chúa đã ban ơn giúp sức ta làm việc cả ngày và cũng để xin Người gìn giữ hồn xác ta ban đêm nữa.

            Lại mỗi khi gặp khốn khó như: Lúc đau yếu, khi bị ma quỉ cám dỗ khuấy khất, ta hãy đem lòng lên cùng Chúa và Ðức Mẹ.  Cầu xin Người thêm sức cho ta được dùng mọi dịp để lập công.

            Ôi! Biết bao người giáo hữu ngày đêm bê tha tội lỗi, mê tham của cải, công việc thế tục, lòng trí ra khô khan nguội lạnh không mấy khi nhớ đến Chúa.  Ta hãy xét xem đã bao lần ta quên lãng việc đọc kinh cầu nguyện?.  Ta hãy thực tình ăn năn và xin Chúa thứ tha. 

            Lạy Ðức Mẹ, xin Ðức Mẹ giúp chúng con noi gương  Mẹ mà siêng năng đọc kinh lần hạt, để đời chúng con được tươi đẹp hơn mà sau này những kinh ấy sẽ kết thành triều thiên cho chúng con trên thiên đàng. 

 

Thánh Tích: 

Hãy luôn chạy đến cùng Đức Mẹ

        Hãy luôn chạy đến cùng Đức Mẹ, đó là câu tóm kết tất cả khoa thần học của Thánh Anphongsô, vị tiến sĩ Hội thánh, đó là trung tâm học thuyết tu đức của thánh nhân vậy.

            Khi người đến tuổi già, không còn đủ trí nhớ để nhớ mình đã lần hạt Mân côi chưa, người vẫn hỏi thầy dòng coi bệnh:

– Hôm nay tôi đã lần hạt chưa thầy?

Một hôm thầy ấy nói với người:

– Thưa cha, bao nhiêu tràng hạt cha đã đọc dư ra hôm nay, con xin cha nhường tất cả cho con.

Đấng thánh liền tỏ vẻ mặt nghiêm trang và nói:

– Thầy đừng đùa, thầy không biết rằng phần rỗi đời đời của tôi là nhờ ở tràng hạt Mân côi ư?”

  Đó là sự thật tỏ rõ như ban ngày: Nếu ta luôn luôn chạy đến cùng Đức Mẹ, chắc chắn thế nào ta cũng rỗi linh hồn và nên thánh.

(Joseph Schrijvers, CSs.R, Mẹ Tôi, bản dịch của Phạm Đình Khiêm,Ns.TT Đức Mẹ tái bản,1987, trang 77)

 

 

Chia sẻ Bài này:
[1] [2] [3]