Ngàn Hoa Dâng Mẹ – Ngày 31

CHƯƠNG TRÌNH NGÀN HOA DÂNG MẸ

Thứ Bảy, ngày 31/05/2014

 

PHẦN I. SUY NIỆM MẦU NHIỆM MÂN CÔI

1. KHAI MẠC

(hát hoặc đọc: xin ơn Chúa Thánh Thần)

1. Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần

Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường.

ÐK. Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.

2. Đọc: Kinh Đức Chúa Thánh Thần

Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con; chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.

Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.

Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.

 

2. TIN MỪNG

(theo lịch phụng vụ mỗi ngày)

Tin Mừng: Lc 1,39-56

39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét.41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần,42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”

46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

47 thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

48 Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.

49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!

50 Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,

55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời.”

56 Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.

3. SUY NIỆM

 “Bà Maria vội vã lên đường” (Lc 1,39).

Như Mẹ: Qua trình thuật Tin Mừng, thánh sử cho chúng ta biết được những bước chân vội vã và đon đả của Đức Maria trên đường đến nhà ông Dacaria để giúp bà chị họ Elisabeth. Hành trình của Mẹ cũng là hành trình của chia sẻ, phục vụ và dấn thân mang Tin Mừng đến với những người đang khao khát Ơn Cứu Độ.

Với Mẹ: Lạy Chúa, Chúa cũng kêu gọi mỗi Kitô hữu chúng con noi gương Mẹ trong mối tương quan với người xung quanh và nhất là trong việc trở thành môn đệ trên cánh đồng truyền giáo của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con nên những sứ giả đích thực của Ơn Cứu Độ, vội vã và đon đả với việc loan báo Chúa Giêsu.

Nhờ Mẹ: Xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ hăng hái lên đường, chia sẻ cơm áo và tình yêu với những người khó khăn và nghèo khổ.

 

4. LẦN HẠT MÂN CÔI

(tuỳ điều kiện: lần hạt 1 chục, 2 chục… 5 chục Kinh Mân Côi)

 

5. KẾT THÚC

(hát hoặc đọc)

1. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa

ĐK. Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í, a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tớ. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.

1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.

2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.

3. Lũ giàu sang đuổi về tay không, những người thanh bần ban đầy hồng phúc. Người đã nhớ lời hứa mà độ trì Ít-ra-en cùng tổ phụ Áp-ra-ham với miêu duệ.

2. Đọc: Thánh ca Tin Mừng
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat)

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn !

Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.

Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
Và cho con cháu đến muôn đời.

Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
tự muôn đời và chính hiện nay
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.

 

PHẦN II:  TÌM HIỂU VỀ ĐỨC MARIA

BÀI 66: VIỆC TÔN KÍNH ĐỨC TRINH NỮ MARIA

Cho đến nay, các bài huấn giáo trình bày vai trò của Đức Maria đối với chúng ta nhìn dưới ánh sáng của chương trình cứu độ. Những bài huấn giáo cuối cùng bàn đến nghĩa vụ của chúng ta đối với Mẹ, tóm lại trong từ ngữ “tôn kính”. Bài hôm nay điểm qua sự tiến triển của lòng tôn kính này trải qua lịch sử Hội thánh: từ những mầm mống gặp thấy nơi Hội thánh tiên khởi cho đến sự phát triển sau công đồng Ephêsô. Việc tôn kính Đức Maria được diễn tả cách riêng qua các kinh nguyện và lễ phụng vụ.

1.- “Khi thời gian đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của mình, sinh bởi người nữ…”(Gl 4, 4). Việc tôn kính Đức Maria đặt nền tảng trên ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã nhắc tới, muốn liên kết bản chất con người của Con Thiên Chúa với một người nữ, Đức Maria Nazarét.

Mầu nhiệm về chức Thân mẫu Thiên Chúa và về sự cộng tác của Đức Maria vào công trình cứu chuộc đã gợi lên trong lòng các tín hữu thuộc mọi thời đại một thái độ ngợi khen vừa hướng về Chúa Cứu thế vừa hướng về Đấng đã sinh hạ Chúa Cứu chuộc trong thời gian, đã cộng tác vào ơn cứu chuộc.

Một động lực khác của lòng yêu mến biết ơn đối với Đức Trinh nữ Maria dựa trên chức vụ làm mẹ tất cả mọi người. Khi chọn Người làm Mẹ của toàn thể nhân loại, Chúa Cha trên trời đã muốn bày tỏ chiều kích nói được là từ mẫu của lòng Chúa ưu ái, lưu tâm săn sóc hết mọi người thuộc hết mọi thời đại.

Trên núi Calvariô, với những lời: “Đây là con của Bà”, “Đây là mẹ của con” (Ga 19,26-27), Chúa Giêsu đã trao ban Đức Maria cho tất cả những người sẽ lãnh nhận Tin mừng cứu độ, và như vậy Chúa đã đặt tiền đề cho lòng con thảo của họ đối với Người. Theo gương ông Gioan, các Kitô hữu muốn kéo dài tình yêu của Chúa Kitô đối với Thân mẫu của mình qua việc tôn kính, đón nhận Người vào đời sống của mình.

2.- Các bản văn Phúc âm đã làm chứng sự hiện diện của việc tôn kính Đức Maria ngay từ buổi sơ khai của Hội thánh.

Hai chương đầu tiên của Tin mừng thánh Luca xem ra đã thu nhặt sự chú ý đặc biệt của các người Kitô hữu gốc Do thái đối với Thân mẫu Đức Giêsu; họ đã bày tỏ lòng quý trọng đối với Người và cẩn thủ những kỷ niệm của Người.

Hơn nữa, trong những trình thuật về thời niên thiếu của Chúa, chúng ta có thể nắm bắt được những lối diễn tả đầu tiên của lòng tôn kính Đức Maria, tóm tắt lại trong những lời thốt lên của bà Isave: “Bà được chúc tụng hơn mọi phụ nữ… Phúc cho bà, vì đã tin rằng Lời Chúa sẽ thực hiện!” (Lc 1,42-45).

Dấu tích của một lòng tôn kính phổ biến trong cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cũng được hiện diện trong bài ca Magnificat: “Hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1,48).

Khi đặt trên môi của Đức Maria những lời đó, các Kitô hữu đã nhìn nhận nơi Người một vẻ cao trọng vô tiền khoáng hậu sẽ được tuyên dương cho đến ngày tận thế.

Ngoài ra, những chứng tá của Tin mừng (xc. Lc 1,34.35; Mt 1, 23 và Ga 1,13), những biểu thức đức tin đầu tiên và một đoạn văn của thánh Ignaxiô Antiôkia đã chứng nhận lòng thán phục đặc biệt của các cộng đoàn tiên khởi đối với đức trinh khiết của Đức Maria, được liên kết chặt chẽ với mầu nhiệm Nhập thể.

Phúc âm thánh Gioan, khi ghi nhận sự hiện diện của Đức Maria vào lúc khởi đầu và kết thúc cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, giả thiết rằng giữa các Kitô hữu đầu tiên đã có một sự ý thức sống động về vai trò của Đức Maria trong công trình cứu chuộc, hoàn toàn tùy thuộc âu yếm vào Đức Kitô.

3.- Khi nêu bật tính cách độc đáo của lòng tôn kính[1] Đức Maria, Công đồng Vaticanô II khẳng định: “Nhờ hồng ân Thiên Chúa, Đức Maria được tôn vinh sau Chúa Con, lên trên hết các thiên thần và loài người, bởi vì Người là mẹ rất thánh của Chúa và đã tham gia vào các mầu nhiệm của Chúa Kitô; do đó Người xứng đáng được Giáo hội tôn vinh và đặc biệt sùng kính” (HT 66).

Và rồi khi nhắc tới kinh cầu khẩn Đức Maria ở thế kỷ thứ III “Sub tuum praesidium”[2], Công đồng thêm rằng tính cách đặc biệt này đã được nổi bật ngay từ đầu: “Thực vậy từ thời xa xưa, Đức Trinh nữ đã được sùng kính dưới tước hiệu Đức Mẹ Chúa Trời, mà các tín hữu đến ẩn náu trong mọi cơn gian nguy và khốn khó” (cđd).

4.- Lời khẳng định ấy được xác nhận bằng những họa phẩm và đạo lý của các Giáo phụ ngay từ thế kỷ thứ II.

Tại Roma, trong hang toại đạo Priscilla, chúng ta có thể chiêm ngắm bức họa đầu tiên diễn tả Đức Mẹ cùng với Hài nhi. Cùng thời ấy thánh Giustinô và thánh Irênêô nói tới Đức Maria như là bà Evà mới, kẻ mà nhờ đức tin và sự tuân phục đã sửa chữa sự bất tín và bất tuân của người phụ nữ đầu tiên. Theo thánh Irênêô, ông Ađam được Đức Kitô cứu chuộc thì chưa đủ, nhưng “điều cần thiết và công bằng là bà Eva được chấn hưng lại trong Đức Maria” (Demonstratio apostolicae praedicationis 33). Như vậy ông đã nêu bật tầm quan trọng của người phụ nữ trong công trình cứu chuộc, và đã đặt một nền tảng cho sự gắn bó giữa lòng tôn kính Đức Maria với việc tôn kính Chúa Giêsu trải qua dòng lịch sử Kitô giáo.

5.- Vào lúc đầu, lòng tôn kính Đức Maria được diễn tả qua việc kêu cầu Người dưới tước hiệu “Theotokos” (Đức Mẹ Chúa Trời ), tước hiệu được xác định bởi Công đồng Êphêsô năm 431, sau cuộc khủng hoảng của ông Nestoriô.

Sự phản ứng bình dân đối với chủ trương mập mờ của ông Nestoriô, khi ông phủ nhận chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, và sự đón tiếp hân hoan của các tín hữu đối với quyết nghị của Công đồng Ephêsô, xác nhận rằng lòng tôn kính Đức Maria đã đâm rễ sâu trong lòng các Kitô hữu. Tuy nhiên “nhất là từ Công đồng Ephêsô trở về sau lòng tôn kính của Dân Chúa đối với Đức Maria đã tăng gia lạ thường về lòng kính mến, trong việc khẩn cầu cũng như việc bắt chước…” (HT 66).

Lòng tôn kính Đức Maria được biểu lộ một cách đặc biệt qua các lễ phụng vụ, trong số đó, từ thế kỷ V trở đi, nổi bật “ngày Đức Maria Theotokos” được mừng vào ngày 15 tháng 8 tại Giêrusalem, và sau đó trở thành lễ An nghỉ hay là Lên trời của Người.

Tiếp đó, dưới ảnh hưởng của sách “Tiền Phúc âm của ông Giacôbê” một vài lễ khác cũng được thiết lập, như là lễ Sinh nhật, lễ Thụ thai và Dâng mình, những lễ này đã đóng góp vào việc làm nêu bật một vài khía cạnh quan trọng của mầu nhiệm Đức Maria.

6.- Chúng ta có thể nói đúng rằng, lòng tôn kính Đức Maria đã được phát triển tới ngày hôm nay một cách liên tục lạ thường, xen lẫn những giai đoạn phồn thịnh với những giaiđoạn khủng hoảng. Dù sao những cuộc khủng hoảng thường có ích lợi vì nó thúc đẩy một sự canh tân lòng sùng kính.

Sau Công đồng Vaticanô II, lòng tôn kính Đức Maria đã được phát triển theo chiều hướng hòa hợp với việc đào sâu thêm mầu nhiệm Hội thánh, và đối thoại với văn hóa đương thời, ngõ hầu đâm rễ sâu hơn trong đức tin và trong đời sống của dân Chúa lữ hành trên mặt đất.

 

BÀI 67: BẢN CHẤT CỦA VIỆC TÔN KÍNH ĐỨC MARIA

Sau khi đã điểm qua lịch sử của việc tôn kính Đức Maria (bài 66), lần này Đức Thánh Cha giải thích bản chất thần học. 1/ Việc tôn kính Đức Maria khác hẳn với việc thờ phượng dành cho Ba Ngôi Thiên Chúa. 2/ Tuy nhiên, việc tôn kính Đức Maria dẫn tới sự tôn thờ Thiên Chúa. 3/ Việc tôn kính dành cho Đức Maria thì cũng khác biệt so với việc tôn kính dành cho các thánh.

1.- Công đồng Vaticano II khẳng định rằng lòng tôn kính Đức Maria “như vốn hiện hành trong Hội thánh, tuy dù mang tính cách đặc biệt, nhưng nó khác biệt về bản tính với việc tôn kính thờ lạy dâng lên Ngôi Lời Nhập thể cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, và nó đặc biệt cổ võ sự thờ lạy đó” (HT66).

Với những lời này, Hiến chế Tín lý về Hội thánh đã nêu bật một vài đặc trưng của lòng tôn kính Đức Maria. Tuy việc tôn kính Đức Maria cao hơn việc tôn kính dành cho các thánh khác, nhưng nó ở dưới việc tôn sùng thờ phượng dành cho Thiên Chúa; sự khác biệt này dựa theo bản tính.

Với từ ngữ “thờ phượng”[3], chúng ta nói tới hình thức tôn thờ mà con người dành cho Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là Đấng tạo hóa và là Chủ tể vạn vật. Được mặc khải soi sáng, người tín hữu thờ lạy Chúa Cha “trong thần khí và sự thật”(Ga 24, 23). Cùng với Chúa Cha, người tín hữu thờ lạy Ngôi Lời Nhập thể, thốt lên như tông đồ Tôma rằng: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa Trời tôi!” (Ga 20,28). Sau cùng hành vi thờ phượng đó cũng bao gồm Chúa Thánh Thần, Đấng “cùng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con”, như tín biểu của Công đồng Nixêa – Constanopolis đã nhắc nhở.

Khi kêu cầu Đức Maria “Đức Mẹ Chúa Trời” và chiêm ngưỡng nơi Người phẩm chức cao trọng được ban cho một thụ tạo, các tín hữu không mang lại cho Người một sự tôn kính ngang hàng với Ba Ngôi Thiên Chúa. Có một sự cách biệt vô bờ bến giữa việc tôn kính Đức Maria với sự tôn thờ dành cho Chúa Ba Ngôi và cho Ngôi Lời Nhập Thể.

Vì thế, ngôn ngữ mà cộng đoàn Kitô hữu dành cho Đức Maria, tuy đôi khi cũng tương tự với việc tôn kính Thiên Chúa[4], nhưng mang một ý nghĩa và một giá trị hoàn toàn khác biệt. Cũng vậy, lòng yêu mến mà các tín hữu dành cho Đức Maria khác với lòng kính mến mà họ dành cho Thiên Chúa: Thiên Chúa cần phải được yêu mến trên hết mọi sự, hết lòng, hết linh hồn và tâm trí  (xc. Mt 2, 27); còn tâm tình mà các Kitô hữu dành cho Đức Maria thì diễn tả trên bình diện thiêng liêng lòng thảo hiếu của con cái dành cho mẹ hiền.

2.- Tuy vậy, giữa việc tôn kính dành cho Đức Maria và việc tôn kính dành cho Thiên Chúa có một sự liên tục: thực vậy, sự tôn vinh dành cho Đức Maria hướng tới việc thờ lạy Ba Ngôi cực thánh.

Công đồng đã nhắc nhở rằng lòng tôn kính dành cho Đức Maria “cổ võ một cách đặc biệt” việc thờ phượng dành cho Ngôi Lời Nhập thể, dành cho Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Công đồng thêm rằng, theo viễn ảnh Kitô học “những hình thức tôn kính Đức Mẹ Chúa Trời mà Hội thánh đã chấp nhận trong giới hạn của một đạo lý lành mạnh và chính thống, tùy theo hoàn cảnh, thời gian và không gian, tùy theo bản sắc và tâm trạng của các tín hữu, những hình thức này đưa tới việc tôn vinh Đức Mẹ, và đồng thời cũng đưa tới việc hiểu biết, yêu mến, tôn vinh và tuân hành giới răn của Chúa Con, Đấng mà trong đó mọi vật được hiện hữu (xc. Cl 1, 15- 16) và Đấng mà Chúa Cha đã vui lòng muốn đặt tất cả sự sung mãn nơi Người (Cl 1,19)” (HT 66).

Ngay từ lúc khởi thủy của Hội thánh, lòng tôn kính Đức Maria hướng tới việc cổ võ sự gắn bó trung thành với Chúa Kitô.

Tôn kính Đức Mẹ Chúa Trời có nghĩa là nhìn nhận thiên tính của Đức Kitô. Thật vậy, các nghị phụ tại Công đồng Êphêsô, khi tuyên dương Đức Maria là “Đức Mẹ Chúa Trời”, đã chủ ý khẳng định niềm tin vào Đức Kitô là Thiên Chúa thật.

Kết luận này cũng có thể rút ra từ trình thuật về phép lạ mà Chúa Giêsu đã thực hiện tại Cana do lời chuyển cầu của Đức Maria, cho thấy là hành động của Đức Maria nhằm tới việc tôn vinh Chúa Con. Thực vậy thánh sử viết như sau: “Như thế Đức Giêsu đã khai mạc các phép lạ của mình tại Cana Galilêa, Người đã bộc lộ vinh quang của mình và các môn đệ tin vào Người” (Ga 2,11).

3.- Đồng thời, lòng tôn kính Đức Maria, đối với người nào biết thi hành theo tinh thần của Hội thánh, hỗ trợ sự thờ lạy Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Thực vậy, khi nhìn nhận giá trị của chức làm mẹ của Đức Maria, các tín hữu nhìn nhận nơi Người sự tỏ lộ đặc biệt một khuôn mặt dịu hiền của Chúa Cha.

Mầu nhiệm của Mẹ đồng trinh cũng nêu bật tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đã thực hiện trong cung lòng của Người việc thụ thai một Hài nhi, và Đấng đã luôn luôn dìu dắt Người suốt cả cuộc đời. Những tước hiệu Đấng an ủi, Trạng sư, Phù giúp, mà lòng đạo đức của dân Thiên Chúa đã gán cho Đức Maria, đã không làm lu mờ nhưng còn làm nổi bật tác động của Chúa Thánh Thần Đấng an ủi[5], và chuẩn bị tâm hồn người tín hữu đón nhận những hồng ân Chúa Thánh Thần.

4.- Sau cùng, Công đồng nhắc lại rằng lòng tôn kính Đức Maria “có tính cách độc đáo”, và vạch ra sự khác biệt so với việc thờ lạy Thiên Chúa và việc tôn kính dành cho các thánh.

Lòng tôn kính Đức Maria mang một sắc thái độc nhất vô nhị bởi vì hướng tới một nhân vật độc nhất vô nhị xét về sự hoàn thiện cá nhân và về sứ mạng. Thực vậy, những hồng ân mà tình thương Chúa ban cho Đức Maria thì hoàn toàn siêu việt, tựa như là sự thánh thiện vô nhiễm, chức làm Mẹ Thiên Chúa, sự liên kết vào công trình cứu chuộc, nhất là thông hiệp vào hy lễ Thập giá.

Lòng tôn kính Đức Maria diễn tả sự ca ngợi và biết ơn của Giáo hội vì những hồng ân phi thường đó. Dân Kitô giáo chạy đến với Người, – Đấng đã trở thành Mẹ của Hội thánh và Mẹ của nhân loại -, với lòng tín thác con cái để khẩn xin sự chuyển cầu hiền mẫu và những ơn ích cần thiết cho cuộc đời dưới thế nhắm tới hạnh phúc vĩnh cửu.

 

BÀI 68: VIỆC TÔN KÍNH ĐỨC MARIA

VÀ VIỆC TÔN KÍNH CÁC ẢNH TƯỢNG

Các tín hữu biểu lộ lòng tôn kính Mẹ Maria qua nhiều hình thức khác nhau: những lễ phụng vụ, những kinh cầu khẩn, những hành vi đạo đức, vv. Một hình thức đặc biệt để biểu dương lòng tôn kính yêu mến là trưng bày các ảnh tượng của Mẹ. Công đồng Nixêa II đã phê chuẩn tập tục ấy. Dù sao, việc tôn kính Đức Maria phải bắt nguồn từ đức tin, ý thức vai trò của Người trong chương trình của Chúa; kế đó nó phải dẫn tới lòng mộ mến và bắt chước các nhân đức.

1.- Sau khi đã duyệt chính đạo lý của việc tôn kính Đức Trinh nữ Maria, công đồng Vaticanô II đã khuyến khích tất cả mọi tín hữu hãy cổ động lòng tôn kính này: “Thánh Công đồng cố ý dạy giáo lý công giáo ấy, và đồng thời khuyến khích tất cả các con cái của Hội thánh hãy nhiệt tâm phát triển lòng tôn kính Đức Nữ trinh đặc biệt là qua các hành vi phụng vụ, họ hãy coi trọng những tập tục và những việc đạo đức dành cho Người, đã được Huấn quyền cổ võ trải qua các thế kỷ” (HT 67).

Với lời khẳng định trên đây, các Nghị phụ, tuy không đi sâu vào chi tiết, đã muốn đề cao giá trị của một vài kinh nguyện chẳng hạn như kinh Mân côi và kinh Truyền tin, rất thân thuộc với truyền thống Kitô giáo và được nhiều Giáo hoàng khuyến khích như là những phương thế hữu hiệu để nuôi dưỡng đời sống đức tin và lòng thảo hiếu đối với Đức Trinh nữ.

2.- Tiếp đến, bản văn Công đồng yêu cầu các tín hữu “hãy kính cẩn tuân giữ những quyết định của các thời đại trước đây liên quan tới việc tôn kính những ảnh tượng của Chúa Kitô, Đức Trinh nữ và của các thánh” (HT 67).

Như vậy công đồng Vaticano II đã lặp lại những quyết định của công đồng Nixêa II họp năm 787, biện minh cho sự hợp pháp của việc tôn kính các ảnh tượng thánh, chống lại những người muốn phá hủy hết các ảnh tượng với lý do là chúng không tương xứng với việc tượng trưng thực tại thiên linh (xc. thông điệp Thân mẫu Đấng Cứu thế 33). Các nghị phụ đã tuyên bố như sau:

“Chúng tôi ấn định cách chắc chắn và minh chính rằng, cũng tựa như việc trưng bày Thập giá cao quý và ban sự sống, thì những hình ảnh đáng kính và thánh thiện, dù là vẽ hay là được tạc hay là bằng chất liệu thích hợp nào khác, cần được trưng bày trong các thánh đường trên các vật dụng thánh, trên các phẩm phục thánh, trên các bức tường và trên bàn, trong nhà và ngoài đường; dù là hình ảnh của Đức Giêsu Kitô Thiên Chúa và là Đấng cứu chuộc chúng ta, hay là hình ảnh của Đức Trinh nữ Maria rất thánh vô nhiễm hay của các thiên thần, của tất cả các thánh và những người công chính”[6].

Khi nhắc lại lời định tín đó, Hiến chế tín lý về Hội thánh đã muốn lặp lại tính cách hợp pháp và hợp lệ của những hình ảnh thánh, đối lại với một vài khuynh hướng muốn loại bỏ các hình tượng ra khỏi các nhà thờ và các thánh điện, nhằm dồn hết mọi chú ý vào Đức Kitô.

3.- Công đồng Nixêa II không những chỉ giới hạn vào việc khẳng định tính chất hợp pháp của ảnh tượng, mà còn muốn giải thích ích lợi đối với lòng đạo đức Kitô giáo: “Thật vậy, càng chiêm ngắm những ảnh tượng này, thì người ta càng tưởng nhớ và ao ước những mẫu mực gốc, và khi hôn kính những ảnh tượng họ có thể bày tỏ lòng kính cẩn và tôn sùng”.

Những lời chỉ dẫn vừa rồi có giá trị đặc biệt đối với việc tôn kính Đức Trinh nữ. Những hình ảnh, những icôn và những bức tượng của Đức Maria, hiện diện trong các căn nhà, những nơi công cộng và trong vô vàn nhà thờ nhà nguyện, giúp cho các tín hữu khẩn nài Người hãy hiện diện và bày tỏ sự che chở lân tuất vào những hoàn cảnh khác nhau của cuôc sống. Khi hiển hiện lòng từ bi từ mẫu của Đức Trinh nữ, những bức ảnh tượng mời gọi hãy hướng lên Người, hãy cầu khẩn Người với lòng tin tưởng và hãy bắt chước Người trong việc quảng đại đón nhận ý Chúa.

Thánh Augustinô đã nhận định rằng không bức tranh ảnh nào có thể họa lại khuôn mặt đích thực của Đức Maria (De Trinitate 8,7). Tuy vậy, chúng giúp cho ta tạo ra mối tương quan sống động với Người. Vì thế cần phải khuyến khích việc trưng bày những ảnh tượng của Đức Maria trong những nơi thờ phượng và những căn nhà khác, ngõ hầu chúng ta có thể cảm thấy sự giúp đỡ của Người trong những cơn khó khăn, và nhắc nhở ta sống một cuộc đời thánh thiện và trung thành với Chúa.

Để có thể cổ võ việc sử dụng xứng đáng các ảnh tượng thánh, công đồng Nixêa đã nhắc nhở rằng: “sự tôn kính dành cho ảnh tượng thánh thì nhắm tới Đấng được tượng trưng qua ảnh tượng; và ai tôn kính ảnh tượng thì tôn kính thực tại của Đấng được diễn tả qua nó”.

Vì thế, khi thờ lạy Ngôi Lời Nhập thể nơi ảnh tượng của Đức Kitô, thì các tín hữu thực hành một việc thờ phượng chân chính, hoàn toàn khác hẳn việc thờ bái ngẫu tượng.

Một cách tương tự như vậy, khi tôn kính những bức ảnh tượng của Đức Maria, người tín hữu thực hiện một hành vi tôn kính bản vị của Thân mẫu Đức Giêsu.

5.- Tuy vậy, công đồng Vaticano II đã khuyến khích các nhà thần học và các nhà giảng thuyết, khi bàn tới chức phẩm đặc biệt của Đức Mẹ Chúa Trời, hãy tránh những thái độ thái quá hay là bất cập. Và Công đồng thêm rằng: “Nhờ việc học hỏi Kinh thánh, các Giáo phụ và các Tiến sĩ và phụng vụ của Giáo hội, dưới sự hướng dẫn của Huấn quyền, họ hãy trình bày đứng đắn những nhiệm vụ và đặc ân của Đức Trinh nữ, tất cả những điều này nhằm tới mục tiêu là Đức Kitô, nguồn gốc của mọi chân lý, sự thánh thiện và lòng tôn kính” (HT 67).

Đạo lý chân chính về Đức Maria được bảo đảm nhờ việc trung thành với Thánh kinh và Thánh truyền, cũng như với các bản văn phụng vụ và với Huấn quyền. Một đặc trưng không thể thiếu là sự quy hướng về Đức Kitô: thực vậy, tất cả mọi điều ở nơi Đức Maria đều phát xuất từ Đức Kitô và hướng về Đức Kitô.

6.- Sau cùng, Công đồng đã cống hiến cho các tín hữu một vài tiêu chuẩn để sống chính đáng mối tương quan con thảo đối với Đức Maria: “Về phần các tín hữu, họ hãy nhớ rằng lòng sùng kính đích thực không nằm ở chỗ tình cảm hời hợt không phát sinh hoa trái, cũng không tại ở chỗ dễ tin vu vơ, nhưng nó phát xuất từ đức tin đích thực, từ đó chúng ta sẽ nhận biết sự cao xa của Đức Mẹ Chúa Trời, và chúng ta được thúc đẩy lấy tình con thảo mà yêu mến và bắt chước các nhân đức của người mẹ chúng ta” (HT 67).

Với những lời này, các Nghị phụ cảnh giác chúng ta về thái độ “dễ tin vu vơ” và sự lấn át của tình cảm. Những lời đó tiên vàn nhằm tới việc khẳng định rằng lòng sùng kính chân chính đối với Đức Maria phát xuất từ đức tin và việc nhận biết âu yếm chức vị của Đức Maria, thúc đẩy tới mối tình con thảo và gợi lên ý muốn bắt chước các nhân đức của Người.

 

BÀI 69: NGUYỆN CẦU MẸ MARIA

Một hình thức biểu lộ lòng tôn kính Đức Maria là các kinh nguyện hướng về Người. Sau khi điểm qua vài kinh nguyện phổ thông (Kinh mừng, Truyền tin, Mân côi, Kinh cầu Đức Bà), Đức Thánh Cha trình bày ý nghĩa của các kinh nguyện kính Đức Mẹ: nó diễn tả lòng tin tưởng của các tín hữu nơi Thân mẫu Chúa Giêsu và cũng là mẹ của chúng ta. Lòng tín thác nơi Đức Mẹ cũng dẫn đến lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa Cha quan phòng săn sóc các con cái.

1.- Trải qua giòng lịch sử, lòng tôn kính Đức Maria đã phát triển không ngừng[7]. Do lòng tôn kính này đã nảy sinh, bên cạnh những lễ phụng vụ dâng kính Đức Mẹ Chúa Trời, rất nhiều hình thức của lòng đạo đức, thường đã được Huấn quyền Giáo hội chuẩn y và khích lệ.

Nhiều việc đạo đức và lời cầu xin hướng lên Đức Maria đã kéo dài chính phụng vụ và đôi khi còn làm giàu thêm cho phụng vụ, tựa như trường hợp Bài nguyện kính Đức Mẹ (Officium B.M.V.) và nhiều bài thánh thi và ca nguyện khác đã được du nhập vào sách Giờ kinh Phụng vụ.

Lời khẩn cầu Đức Maria đầu tiên được biết tới đã bắt nguồn từ thế kỷ III và khởi đầu với những lời: “Sub tuum praesidium” (Lạy Đức Mẹ Chúa Trời này chúng con chạy đến tìm nương ẩn nơi Ngài…). Tuy nhiên từ thế kỷ XIV, kinh “Kính mừng Maria” là kinh nguyện phổ thông nhất giữa các tín hữu dành cho Đức Maria[8].

Kinh Kính mừng lấy lại những lời đầu tiên của thiên sứ chào Đức Maria, dẫn đưa các tín hữu vào việc chiêm niệm mầu nhiệm Nhập thể. Lời chào “kính mừng” (Ave) dịch tiếng Hy lạp “Khairê” tạo nên một lời mời gọi vui mừng, và cũng có thể dịch là “Hãy vui lên”. Bài thánh thi bên các Giáo hội Đông phương “Akathistos” lặp đi lặp lại nhiều lần tiếng “Hãy vui lên”. Trong kinh Kính mừng Đức Trinh nữ được gọi là “đầy ơn phước” và như thế Người được nhìn nhận là Đấng hoàn thiện và tuyệt mỹ trong linh hồn.

Câu nói “Chúa ở cùng bà” bày tỏ mối tương quan đặc biệt giữa Thiên Chúa với Đức Maria, nằm trong chương trình rộng lớn của mối giao ước giữa Thiên Chúa với toàn thể nhânloại. Và rồi những lời “Bà có phúc lạ hơn mọi phụ nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ” khẳng định việc thực hiện chương trình của Thiên Chúa trong thân thể trinh khiết của Thiếu nữ Sion.

Khi kêu khẩn “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời”, các Kitô hữu nài xin Đấng được đặc ân làm Thân mẫu tinh tuyền của Chúa, hãy “cầu cho chúng con là những người tội lỗi”, và họ ký thác bản thân cho Người trong giây phút hiện tại và trong giờ phút trọng đại lúc lâm chung[9].

2.- Kinh “Truyền tin” cũng mời gọi suy ngắm Mầu nhiệm Nhập thể, thúc giục người Kitô hữu hãy lấy Đức Maria như là điểm quy chiếu vào những thời khắc trong ngày, để bắt chước Người trong thái độ sẵn sàng thực hiện chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Lời kinh này ra như làm cho chúng ta sống lại biến cố trọng đại của lịch sử nhân loại, nghĩa là Mầu nhiệm Nhập thể, mà mỗi kinh “Kính mừng Maria” đã nhắc tới. Đó là giá trị và sự hấp dẫn của kinh “Truyền tin”, đã được trình bày nhiều lần không những bởi những nhà thần học và các mục tử, mà cả do các thi sĩ và họa sĩ nữa.

Trong việc tôn kính Đức Maria, một chỗ đứng đặc biệt đã được dành cho kinh Mân côi, qua việc lặp lại những kinh “Kính mừng Maria”, người tín hữu được dẫn tới việc chiêm ngắm những mầu nhiệm đức tin. Kể cả kinh nguyện đơn giản này, trong khi nuôi dưỡng lòng mộ mến của dân Kitô hữu đối với Đức Mẹ Chúa Trời, cũng định hướng rõ rệt hơn kinh nguyện Maria tới mục tiêu của nó, đó là tôn vinh Chúa Kitô.

Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, cũng như những vị tiền nhiệm, đặc biệt là Đức Lêô XIII, Piô XII và Gioan XXIII, rất quí trọng việc lần chuỗi mân côi và ước ao được quảng bá trong các gia đình. Ngoài ra, trong Tông huấn Marialis Cultus, Đức Phaolô VI đã trình bày đạo lý nhắc nhở rằng đây là một “kinh nguyện Phúc âm, đặt trọng tâm nơi Mầu nhiệm Nhập thể cứu chuộc”, và “hoàn toàn quy hướng về Chúa Kitô” (số 46).

Kèm theo kinh Mân côi, lòng đạo đức bình dân thường thêm các Kinh cầu, nổi tiếng hơn cả là kinh cầu được sử dụng tại thánh điện Lôrêto[10]. Qua các lời kêu khẩn rất đơn sơ, những kinh cầu này giúp cho chúng ta chú ý tới thân thế của Đức Maria, ngõ hầu nắm bắt tình thương mà Thiên Chúa Cha đã đổ tràn xuống nơi Người.

3.- Theo như phụng vụ và lòng đạo đức Kitô giáo đã cho thấy, Hội thánh vẫn luôn luôn trân trọng lòng tôn sùng Đức Maria bởi vì nhận thấy nó gắn chặt với đức tin vào Chúa Kitô. Thực vậy, lòng tôn sùng Đức Maria đặt nền tảng ở trên chương trình của Chúa Cha, ý định của Chúa Cứu thế và tác động linh ứng của Chúa Thánh Thần.

Đức Trinh nữ Maria đã nhận lãnh sự cứu độ và ân sủng từ Đức Kitô, Người đã được kêu gọi để chu toàn một vai trò nổi bật trong việc cứu chuộc nhân loại. Qua việc tôn kính Đức Maria, các Kitô hữu nhìn nhận giá trị sự hiện diện của Đức Maria trên con đường tiến về ơn cứu độ, bằng cách chạy tới Người để xin hết mọi thứ ơn lành. Họ biết rằng mình có thể tin tưởng nơi lời chuyển cầu của Mẹ, để nhận lãnh nơi Thiên Chúa những gì cần cho sự phát triển đời sống siêu nhiên và đạt tới ơn cứu rỗi đời đời.

Những tước hiệu gán cho Đức Trinh nữ và những cuôc hành hương không ngớt về các đền Thánh mẫu cho thấy rằng lòng tín thác của các tín hữu đối với Thân mẫu Chúa Giêsu thúc đẩy họ kêu khấn Người trong những nhu cầu thường nhật. Họ chắc chắn rằng trái tim của người mẹ không thể nào bất động trước những nỗi khổ vật chất và tinh thần của con cái.

Do đó, việc tôn kính Đức Mẹ Chúa Trời, khi thúc đẩy lòng tin tưởng tự phát, thì góp phần vào việc giúp cho đời sống thiêng liêng được an bình, và giúp cho các tín hữu trên con đường cam go của các mối chân phúc.

4.- Sau cùng, chúng tôi muốn thêm rằng lòng tôn kính Đức Maria, khi làm nêu bật tính cách nhân bản của mầu nhiệm Nhập thể, giúp cho chúng ta khám phá ra hơn khuôn mặt của Thiên Chúa biết chia sẻ những vui mừng và những đau khô của nhân loại, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Đấng đã được thụ thai làm người trong cung lòng thanh sạch của Đức Trinh nữ, đã được sinh ra, dưỡng dục và theo dõi với mối tình âu yếm từ những ngày ở Nazarét và Bêlem cho tới lúc tử nạn trên Thập giá và Phục sinh[11].

 

BÀI 70: MẸ CỦA SỰ HIỆP NHẤT VÀ NIỀM HY VỌNG

Những đoạn cuối cùng của Hiến chế tín lý về Hội thánh đã giới thiệu Đức Maria như “dấu chỉ của lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho Dân Chúa đang lữ hành”. Đức Gioan Phaolô II cũng muốn kết thúc loạt bài huấn giáo về Mẹ Maria dưới chiều hướng hy vọng: hy vọng cho sự hợp nhất giữa các Kitô hữu; hy vọng cho sự hòa giải nhân loại.

1.- Sau khi đã trình bày những mối liên hệ giữa Đức Maria và Hội thánh, Công đồng Vaticano II hân hoan khi nhận thấy Đức Trinh nữ được tôn kính kể cả ở bên các Kitô hữu không thuộc về cộng đoàn công giáo: “vì thế thánh Công đồng rất vui mừng và an ủi khi thấy ngay giữa các anh em ly khai, không thiếu những người dâng lên Thân mẫu Chúa Cứu thế vinh dự mà Người đáng được” (HT 69). Khi đi sâu vào vấn đề, chúng ta có thể nói rằng tuy chức Mẹ phổ quát của Đức Maria còn gây ra nhiều chia rẽ đau thương giữa các Kitô hữu, nhưng nó cũng tạo thành một dấu hiệu hy vọng lớn lao trên con đường đại kết.

Nhiều Giáo hội Tin lành[12], dựa theo một quan điểm riêng biệt về ơn thánh và về Hội thánh, đã chống lại đạo lý về việc tôn sùng Đức Maria, bởi vì họ cho rằng sự hợp tác của Đức Maria vào công trình cứu chuộc sẽ làm giảm sút vai trò môi giới duy nhất của Đức Kitô. Trong viễn ảnh đó, việc tôn kính Đức Maria ra như cạnh tranh với vinh quang đáng phải dành cho Chúa Con.

2.- Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, việc đào sâu tư tưởng của những nhà Cải cách đầu tiên đã đem ra ánh sáng nhiều chủ trương cởi mở đối với quan điểm đạo lý Công giáo. Chẳng hạn như những tác phẩm của ông Lutêrô đã bày tỏ lòng yêu mến và tôn kính đối với Đức Maria, được tuyên dương như là khuôn mẫu của mọi nhân đức. Ông ta chủ trương sự thánh thiện cao vời của Đức Mẹ Chúa Trời, và đôi khi còn nhìn nhận đặc ân Vô nhiễm nguyên tội, và cũng chia sẻ với những nhà cải cách khác đức tin vào sự trinh khiết trọn đời của Đức Maria.

Việc nghiên cứu tư tưởng của ông Lutêrô và ông Calvinô, cũng như việc phân tích một vài văn phẩm của anh em Tin Lành, đã gây ra một sự chú ý mới đối với vài đề tài Thánh-mẫu-học về phía Tin Lành và Anh giáo. Thậm chí một vài người đã đạt tới kết luận rất gần gũi với các người công giáo về những điểm căn bản của đạo lý về Đức Maria, tựa như Mẹ Thiên Chúa, đức trinh khiết, sự thánh thiện, chức làm mẹ tinh thần.

Mối quan tâm tới giá trị của sự hiện diện của người phụ nữ trong Hội thánh đã cổ võ nỗ lực nhìn nhận vai trò của Đức Maria trong lịch sử cứu rỗi.

Những dữ kiện vừa rồi đã tạo nên những lý do hy vọng đối với con đường đại kết. Niềm ao ước mãnh liệt của các người Công giáo là sẽ được chia sẻ với tất cả các anh chị em trong Đức Kitô niềm vui phát xuất từ sự hiện diện của Đức Maria trong cuộc sống theo Chúa Thánh Thần.

3.- Công đồng nhắc lại rằng giữa những người anh em đã “dâng lên Mẹ của Chúa Cứu thế danh dự Người đáng được”, đặc biệt là những anh em Đông phương, “những người nhiệt thành và sốt sắng sùng kính Đức Mẹ Chúa Trời trọn đời đồng trinh” (HT 69).

Qua rất nhiều hình thức tôn sùng Đức Trinh nữ Maria, chúng ta thấy rằng lòng tôn kính Đức Mẹ là một yếu tố đáng kể tạo ra sự thông hiệp giữa người Công giáo và người Chính thống, Tuy nhiên vẫn còn một vài sự khác biệt xung quanh các tín điều Vô nhiễm nguyên tội và Hồn xác lên trời, tuy rằng những chân lý đó vào lúc đầu đã được giải thích do một vài nhà thần học Đông phương; chỉ cần nhắc lại những văn hào lớn như là Grêgoriô Palamas (+1359), Nicola Cabasilas (+ sau 1396), Giorgio Scholarios (+ sau 1472).

Tuy nhiên những sự khác biệt đó, có lẽ về hình thức phát biểu đạo lý hơn là về nội dung[13], không được làm cho chúng ta quên đi niềm tin chung giữa hai bên về chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, về sự trinh khiết vẹn tuyền, về sự hoàn toàn thánh thiện, về sự chuyển cầu hiền mẫu bên cạnh Chúa Con. Như Công đồng Vaticano II đã nhắc tới, “nhiệt tình và lòng sùng kính này” liên kết các người Chính thống và Công giáo trong việc tôn kính dâng lên Đức Mẹ Chúa Trời.

4.- Vào cuối hiến chế về Hội thánh, Công đồng mời gọi hãy ký thác cho Đức Maria công cuộc hợp nhất các Kitô hữu: “Tất cả mọi Kitô hữu hãy thiết tha khẩn nguyện Đức Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của loài người, ngõ hầu như xưa Người đã giúp buổi khai nguyên của Hội thánh bằng lời cầu nguyện, thì ngày nay trên trời, được tôn vinh trên các thánh và các thiên thần trong sự thông hiệp của toàn thể các thánh, Người hãy cầu bầu bên cạnh Thánh Tử”.

Cũng như trong cộng đoàn tiên khởi, sự hiện diện của Đức Maria đã cổ động cảnh tâm đầu ý hợp, mà lời cầu nguyện đã siết chặt và bày tỏ hữu hình (Cv1,14), thì việc thông hiệp sâu xa với Đấng mà thánh Augustino đã gọi là “Mẹ của sự hiệp nhất” (Sermo 192, 2) sẽ có thể dẫn đưa các Kitô hữu được vui hưởng hồng ân của sự hiệp nhất rất đáng ước mong.

Những lời cầu nguyện của chúng ta được dâng lên Đức Trinh nữ rất thánh cách thiết tha ngõ hầu, cũng như vào bước đầu Người đã nâng đỡ con đuờng của cộng đoàn các Kitô hữu hiệp nhất trong lời cầu nguyện và trong việc loan báo Tin Mừng, thì ngày hôm nay do lời chuyển cầu, mong Người đạt được tới sự hòa giải và thông hiệp trọn vẹn giữa các người tin vào Chúa Kitô.

Là mẹ của loài người, Đức Maria thấy rõ những nhu cầu và những khát vọng của nhân loại. Công đồng đã xin Người hãy đặc biệt chuyển cầu ngõ hầu “các gia đình thuộc mọi dân tộc, cho dù đã mang danh là Kitô giáo hoặc là chưa biết Đấng Cứu thế của mình, được may mắn đoàn tụ trong hân hoan và an bình, hoàn thành một dân Thiên Chúa duy nhất, ngõ hầu tôn vinh Ba ngôi Thiên Chúa rất thánh và không phân chia” (HT 69).

Bình an, thuận hòa và hiệp nhất, đối tượng của niềm hy vọng của Hội thánh và của nhân loại, xem ra còn xa vời. Tuy nhiên chúng cấu thành một hồng ân của Chúa Thánh Thần mà chúng ta cần phải kêu xin không ngừng, khi chúng ta đến thụ giáo ở nơi trường Đức Maria và tin tưởng nơi lời chuyển cầu của Người.

5.- Với lời khẩn nài đó, các Kitô hữu chia sẻ niềm khát vọng của Đấng được tràn đầy nhân đức trông cậy, đang nâng đỡ Hội thánh trên con đường tiến tới tương lai của Chúa.

Nay đã đạt tới hạnh phúc “vì đã tin là Lời Chúa sẽ thực hiện” (Lc1,45), Đức Trinh nữ đồng hành với các tín hữu và với toàn thể Hội thánh, ngõ hầu giữa những nỗi vui và thử thách ở cuộc đời này, họ được trở thành những ngôn sứ đích thực của niềm hy vọng không hững hờ.



[1] “Cultus”:  tôn kính,  sùng kính, tôn sùng.

[2] “Chúng con trông cậy…”, xem bài 37.

[3] “adoratio”:  thờ phượng, thờ lạy, tôn thờ. xc Sách GLCG số 2096-2097; 2628.

[4]  Ngôn ngữ nhiều khi trùng nhau, chẳng hạn: phụng tự, thờ phượng, tôn kính, sùng kính, tôn sùng, …

[5] Chúa Thánh thần Đấng An ủi: Parakletos (Ga 14,16), được dịch ra tiếng latinh là Consolator (xc Sách GLCG số 692).

[6] Xem thêm Sách GLCG số  1159-1162; 2131-2132..

[7] Xc. bài 5; 66.

[8]  Tuy phần thứ nhất của Kinh Kính mừng lấy từ các bản văn của Tin mừng Luca, nhưng mãi tới thế kỷ thứ V mới được dùng làm bản kinh. Phần thứ hai được thêm vào  từ thế kỷ XIV.

[9] Xem thêm chú giải kinh Kính mừng ở Sách GLCG số 2676.

[10] Lôrêtô là một thị trấn ở miền Trung Italia, nơi lưu giữ một căn nhà tục truyền là căn nhà Nazaret nơi Đức Mẹ lãnh nhận sứ điệp Truyền tin. Kinh cầu Lôrêtô được đọc sau kinh Mân côi, tại Việt nam quen gọi là “Kinh cầu Đức Bà”.

[11] Về căn bản thần học của các kinh nguyện “cùng với” và “hướng tới” Đức Maria, xem Sách GLCG số 2673-2679.; 971.

[12] Dựa theo sắc lệnh về Đại kết của công đồng Vaticanô II, người ta thường phân chia các Giáo hội ly khai thành hai khối chính: 1/ Các Giáo hội bên Đông phương (đa số thuộc các Giáo hội Chính thống). 2/ Các giáo đoàn ly khai bên Tây phương, quen gọi là các Hội thánh “Cải cách” (Reformées), “Tin lành” (Evangeliques). Tiếng “Thệ phản” dịch từ “Protestants”, nhưng không đúng . Tự nó, “protester” chỉ có nghĩa là phản đối, phân trần.

[13] Nguồn gốc của hai tín điều vừa nói bắt nguồn từ lễ phụng vụ bên Đông phương. (xc. bài 55), và đã được mọi người tin nhận. Tuy nhiên, các Giáo hội Chính thống không chấp nhận để cho một mình Giáo hoàng tuyên bố tín điều. Theo truyền thống  Đông phương, các tín điều cần được tuyên bố ở Công đồng.

Chia sẻ Bài này:

Related posts

Leave a Comment