Ngàn Hoa Dâng Mẹ – Ngày 24

CHƯƠNG TRÌNH NGÀN HOA DÂNG MẸ

Thứ Bảy, ngày 24/05/2014

 

PHẦN I. SUY NIỆM MẦU NHIỆM MÂN CÔI

1. KHAI MẠC

(hát hoặc đọc: xin ơn Chúa Thánh Thần)

1. Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần

Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường.

ÐK. Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.

2. Đọc: Kinh Đức Chúa Thánh Thần

Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con; chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.

Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.

Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.

 

2. TIN MỪNG

(theo lịch phụng vụ mỗi ngày)

Tin Mừng: Ga 15,18-21

18 Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước.19 Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em.20 Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em.21 Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy.

 

3. SUY NIỆM

 “Anh em không thuộc về thế gian” (Ga 15,19).

Như Mẹ: Thế gian trong bài Tin Mừng mà Chúa Giêsu muốn nói, đó là một thế lực thù ghét và luôn chống đối, tìm cách hãm hại Người. Vậy tại sao Chúa vẫn để chúng ta ở lại trong thế gian? Chúa không còn thương chúng ta nữa sao? Chắc chắn là không phải vậy rồi. Chúa sai chúng ta vào thế gian để biến đổi nó, để đem yêu thương vào nơi oán thù và ghen ghét.

Với Mẹ: Lạy Chúa, Chúa đã tách chúng con ra khỏi thế gian, nhưng lại sai chúng con đi vào thế gian. Đó là một thách đố lớn đối với lòng tin của mỗi người chúng con.

Nhờ Mẹ: Xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương khiêm nhường, âm thầm phục vụ của Mẹ, biết yêu thương anh em mình, để dù chúng con sống giữa thế gian, nhưng không bị vẩn đục bởi thế gian.

 

4. LẦN HẠT MÂN CÔI

(tuỳ điều kiện: lần hạt 1 chục, 2 chục… 5 chục Kinh Mân Côi)

 

5. KẾT THÚC

(hát hoặc đọc)

1. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa

ĐK. Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í, a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tớ. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.

1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.

2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.

3. Lũ giàu sang đuổi về tay không, những người thanh bần ban đầy hồng phúc. Người đã nhớ lời hứa mà độ trì Ít-ra-en cùng tổ phụ Áp-ra-ham với miêu duệ.

2. Đọc: Thánh ca Tin Mừng
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat)

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn !

Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.

Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
Và cho con cháu đến muôn đời.

Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
tự muôn đời và chính hiện nay
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.

 

PHẦN II:  TÌM HIỂU VỀ ĐỨC MARIA

BÀI 47: ĐỨNG KỀ BÊN THÂP GIÁ,

ĐỨC MARIA THÔNG DỰ VÀO THẢM KỊCH CỨU CHUỘC

Sự tham dự của Mẹ Maria vào công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu đạt tới cao điểm khi Người đứng gần kề bên Thập giá. Mẹ kết hợp với hy tế của Con mình, và thuận nhận dâng hiến Thánh tử vì phần rỗi nhân loại. Mẹ trở thành tấm gương cho niềm hy vọng vào ánh sáng Phục sinh giữa đêm tối của Thập giá.

1.- Regina coeli laetare, alleluia! Lạy Nữ Vương thiên đàng hãy vui mừng, alleluia!

Giáo hội đã hát như vậy trong mùa Phục sinh[1], mời gọi các tín hữu hãy hợp với niềm hoan hỉ của Đức Maria, Thân mẫu của Chúa Phục sinh. Niềm vui của Đức Mẹ vì Chúa Phục sinh lại càng lớn lao hơn nữa nếu chúng ta nhìn tới việc Người tham gia bền chặt vào suốt cuộc đời Đức Giêsu.

Khi hoàn toàn chấp nhận lời của sứ thần Gabriel báo tin rằng mình sẽ trở thành Mẹ của Đấng Mêsia, Đức Maria đã khởi sự tham gia vào bi kịch cứu chuộc. Mẹ bị lôi cuốn vào hy lễ của con mình, theo như ông Simêon đã tiên báo vào lúc tiến dâng Con vào Đền thờ; điều này đã được tiếp diễn qua việc lạc mất và tìm được Đức Giêsu lúc 12 tuổi, và kéo dài trong suốt cuộc đời công khai. Tuy nhiên, sự liên kết của Đức Trinh nữ Maria vào sứ mạng của Đức Kitô đạt tới tột đỉnh tại Giêrusalem, vào lúc Đấng Cưú thế bị khổ nạn và chịu chết. Như Phúc âm thứ IV đã nói tới, vào những ngày đó Đức Maria có mặt tại Thành thánh, có lẽ là để cử hành lễ Vượt qua của dân Do thái.

2.- Công đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh tới chiều kích sâu thẳm của việc Đức Maria hiện diện trên núi Calvario, khi nói rằng “Đức Maria đã trung tín duy trì sự kết hiệp với Con mình cho tới cây Thập giá” (HT 58). Công đồng cũng thêm rằng sự kết hiệp vào công trình Cứu chuộc đã được bày tỏ từ lúc thụ thai trinh khiết Đức Kitô cho tới khi Chúa chịu chết (HT 57).

Với cái nhìn được tia sáng Phục sinh chiếu rọi, chúng ta hãy dừng lại để chiêm ngắm việc Đức Mẹ gắn bó với cuộc khổ nạn cứu chuộc của Con mình, và được diễn ra qua việc thông dự vào cuộc đau khổ của Đức Kitô. Chúng ta hãy trở lại dưới chân Thánh giá, nơi mà Đức Maria đã “đau đớn khổ cực cùng với Con một của mình, và đã liên kết bằng tình mẹ với hy lễ của Con, thuận nhận vào sự hiến tế của lễ-vật do mình sinh ra” (HT 58).

Với những lời này, Công đồng nhắc tới sự “đồng tử nạn của Đức Maria”[2]: những gì mà Đức Giêsu đã chịu đau khổ trong tâm hồn và trong thân xác thì đều vọng lại trong con tim của Mẹ. Đức Maria đã bày tỏ ý chí muốn tham dự vào hy lễ cứu chuộc và kết hiệp sự đau khổ của một người mẹ vào sự hiến tế của Con.

Ngoài ra, bản văn của Công đồng cũng nêu bật rằng sự ưng thuận của Đức Maria vào hy lễ của Đức Giêsu không phải chỉ là một sự chấp nhận thụ động, nhưng là một hành vi yêu thương, qua đó Mẹ đã hiến dâng Con mình làm hy lễ xá tôi cho toàn thể nhân loại.

Sau cùng, Hiến chế về Hội thánh đã đặt Đức Trinh nữ Maria trong mối tương quan với Đức Kitô, nhân vật chính của việc cứu chuộc, xác nhận rằng khi kết hiệp với “hy lễ của Đức Kitô”, Đức Maria luôn luôn tùy thuộc vào Con của mình.

3.- Trong Tin mừng thứ IV, thánh Gioan kể lại rằng “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có Thân mẫu Người, chị của bà Thân mẫu là bà Maria vợ ông Clêôpha, cùng với bà Maria Magđala” (19,25). Khi dùng động từ “đứng”, dịch sát nghĩa là “đứng thẳng”, có lẽ thánh sử muốn trình bày tính can trường trong khi Đức Maria và các bà khác chịu đựng đau khổ.

Cách riêng, thế “đứng thẳng” của Đức Maria gần bên Thập giá nhắc tới sự cương quyết và lòng can đảm của Người khi đối đầu với sự đau khổ. Trong bi kịch núi Calvariô, Đức Maria đã được nâng đỡ nhờ đức tin, một đức tin đã được củng cố trong trót cuộc sống, và nhất là trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Công đồng nhắc lại rằng “Đức Trinh nữ Maria đã tiến tới trên hành trình đức tin và duy trì sự kết hiệp với Con mình cách trung thành cho tới cây Thập giá” (HT 58).

Đối lại với những lời nhục mạ Đấng Mêsia bị đóng đinh, Mẹ Maria cùng chia sẻ những tâm tình của Con mình, đã van nài sự tha thứ, kết hiệp với lời khẩn nguyện dâng lên Chúa Cha: “Xin Cha tha cho họ bởi vì họ không biết điều họ làm” (Lc 23,34). Thông dự vào tâm tình phó thác cho ý muốn của Chúa Cha, được biểu lộ qua những lời sau hết của Đức Giêsu trên Thập giá: “Lạy Cha, con xin phó thác thần trí con trong tay Cha” (Lc 23,46), Mẹ đã biểu lộ một sự thỏa thuận âu yếm, – như Công đồng đã nói-, “vào sự hiến tế của lễ-vật do mình sinh ra” (HT 58).

4.- Trong tiếng “xin vâng” tột độ này, Đức Maria biểu lộ niềm hy vọng tin tưởng vào tương lai huyền nhiệm, bắt đầu từ cái chết của Con mình trên Thập giá. Trên đường về Giêrusalem Đức Giêsu đã nói với các môn đệ rằng “Con Người sẽ phải đau khổ rất nhiều, bị ruồng bỏ bởi những Kỳ mục, Thượng tế cùng Kinh sư, bị giết chết và sau ba ngày sống lại” (Mc 8, 31); những lời này đã vang lên trong con tim của Mẹ Maria vào lúc bi thảm trên núi Calvariô, gợi lên niềm chờ đợi và khao khát sự phục sinh. Lòng hy vọng của Đức Maria đứng dưới chân Thập giá chứa đựng một ánh sáng còn mạnh hơn sự tối tăm ở trong nhiều tâm hồn: đứng trước Hy lễ cứu chuộc,  nảy sinh ra nơi Đức Maria niềm hy vọng của Hội thánh và của nhân loại.

 

BÀI 48: ĐỨC MARIA,

NGƯỜI CỘNG TÁC ĐỘC ĐÁO VÀO VIỆC CỨU CHUỘC

Trong bài trước, Đức Thánh Cha đã suy nghĩ về sự “đồng thụ nạn” của Đức Maria, nghĩa là Mẹ đã chia sẻ sự đau khổ của Con mình. Đây là một đề tài đã được mọi người chấp nhận. Tiến thêm một bước nữa, trong bài hôm nay, Đức Thánh Cha bàn về tước hiệu “cộng tác viên” vào việc cứu rỗi (thường được dịch là “đồng công cứu chuộc”). Có những tác giả đã phản đối việc sử dụng tước hiệu này, với lý do là duy có Đức Kitô mới là vị Cứu chuộc nhânloại. Công cuộc cứu chuộc thành tựu do Đức Kitô, chứ không cần nhờ đến ai khác. Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa chính xác của vai trò “cộng tác” của Mẹ Maria: Người đã cộng tác với danh nghĩa là “Thân mẫu của Thiên Chúa”; Người cũng cần được Chúa Kitô cứu chuộc; Người đã hợp tác với Chúa Kitô vào chính lúc thành hình ơn cứu chuộc và còn tiếp diễn trong Nhiệm thể Chúa Kitô, tức là Hội thánh.

1.- Trải qua dòng lịch sử, Hội thánh đã suy nghĩ về sự cộng tác của Đức Maria vào công cuộc cứu chuộc, phân tích cách thức kết hiệp của Người vào hy lễ cứu chuộc của Đức Kitô. Thánh Augustinô đã gán cho Đức Trinh nữ Maria danh hiệu “công sự viên” (cooperatrix) của việc cứu chuộc (xc. De Sancta Virginitate, 6), một tước hiệu vừa nêu bật sự đồng lao cộng tác vừa nói tới sự lệ thuôc của Mẹ Maria vào Đức Kitô Đấng cứu chuộc.

Từ thế kỷ XV sự suy tư đã phát triển theo chiều hướng ấy. Có người lo sợ rằng như vậy là sẽ đặt Đức Maria ngang hàng với Đức Kitô. Thực ra, giáo huấn của Hội thánh Công giáo luôn luôn nêu bật sự khác biệt giữa Đức Maria và Đức Kitô trong công trình cứu chuộc, nhằm chứng tỏ cho thấy rằng Đức Trinh nữ là cộng sự viên, tùy thuộc vào Đấng Cứu chuộc duy nhất.

Mặt khác, khi khẳng định rằng “chúng tôi là những cộng tác viên của Chúa” (1Cr 3, 9), thánh Phaolô chủ trương rằng con người có thể thực sự cộng tác với Thiên Chúa. Dĩ nhiên, sự cộng tác của các tín hữu không có nghĩa là họ ngang hàng với Thiên Chúa; sự cộng tác diễn ra qua việc loan báo Tin mừng và góp phần vào việc đưa Tin mừng đâm rễ trong con tim của hết mọi người.

2.- Khi áp dụng vào Đức Maria, danh từ “công tác” mang một ý nghĩa riêng biệt. Sự cộng tác của các Kitô hữu vào công trình cứu độ diễn ra sau biến cố Calvariô, từ đó họ quyết tâm quảng bá những hoa trái của Thập giá bằng lời cầu nguyện và sự hy sinh. Còn sự hợp tác của Đức Maria thì diễn ra trong biến cố Calvariô và với danh nghĩa của bà mẹ; do đó nó trải rộng ra toàn thể công trình cứu chuộc của Đức Kitô. Duy chỉ Đức Maria được kết nạp với danh nghĩa đó vào hy lễ cứu chuộc mang lại ơn cứu rỗi cho hết mọi người. Hợp với Đức Kitô và tùy thuộc vào Đức Kitô, Mẹ Maria đã cộng tác vào việc khẩn nài ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.

Nền tảng của vai trò đặc biệt mà Đức Maria góp phần vào công trình cứu chuộc là chức vụ Thân mẫu Thiên Chúa. Như công đồng Vaticanô II đã nói, “Người đã cộng tác một cách hết sức đặc biệt vào chương trình của Đấng Cứu thế” (HT 61), bằng việc sinh ra Đấng được đặt làm Đấng cứu chuộc nhân loại, bằng việc nuôi dưỡng Người, dâng tiến Người trong Đền thờ, cùng chịu đau khổ với Người trên thập giá. Tuy dù lời Thiên Chúa mời gọi cộng tác vào công trình cứu chuộc được hướng tới tất cả mọi người, nhưng sự tham gia của Thân mẫu Đấng Cứu thế vào công việc cứu chuộc nhân loại là một sự kiện duy nhất và vô tiền khoáng hậu.

Tuy dù sự cộng tác của Maria vào việc cứu chuộc mang tính cách rất độc đáo, nhưng chúng ta đừng quên rằng chính Người cũng là kẻ được cứu chuộc. Đức Maria là người đầu tiên được cứu chuộc, được Đức Kitô giải thoát “một cách siêu việt” trong đặc ân thụ thai vô nhiễm (xc. sắc chiếu Ineffabilis Deus của Đức Piô IX[3]) và Người đã được Chúa Thánh Thần đổ tràn ân sủng.

3.- Những điều vừa nói gợi lên câu hỏi khác: ý nghĩa việc cộng tác của Đức Maria vào chương trình cứu chuộc của Chúa như thế nào? Thưa rằng ý nghĩa của nó cần phải đi tìm trong ý định của Thiên Chúa dành cho Thân mẫu Đấng Cứu thế vào hai cơ hội đặc biệt, đó là tại Cana và dưới chân Thánh giá, khi Chúa Giêsu gọi Người bằng tước hiệu “người nữ” (xc. Ga 2,4; 19,26). Đức Maria được kết hiệp với tư cách là người Phụ nữ (Đàn bà) vào công trình cứu chuộc. Trước đây Thiên Chúa đã tạo dựng loài người “có nam có nữ” (xc. St 1, 27); bây giờ, trong công trình cứu chuộc, Chúa cũng muốn kết nạp với “ông Ađam mới” một “bà Evà mới”. Đôi nguyên tổ đã dẫn đường tới tội lỗi; một đôi mới, Con Thiên Chúa với sự cộng tác của Thánh mẫu, sẽ hồi phục phẩm giá nguyên thủy của mình.

Như vậy, Đức Maria bà Evà mới, trở thành họa phẩm tuyệt mỹ của Hội thánh. Trong chương trình của Thiên Chúa, dưới chân Thập giá Đức Maria tượng trưng cho nhân loại được cứu chuộc, nhưng đồng thời cũng có khả năng đóng góp vào sự phát triển của công trình cứu chuộc.

4.- Đó là tư tưởng của công đồng Vaticanô II, khi nhấn mạnh tới sự cộng tác của Đức Trinh nữ Rất thánh không những chỉ vào lúc sinh hạ Đấng Cứu thế, mà còn kéo dài ra suốt cuộc đời của Nhiệm thể Chúa suốt dòng lịch sử cho đến ngày tận thế: trong Hội thánh, Đức Maria đã và đang cộng tác vào công cuộc cứu rỗi (xc. HT 53; 63). Khi giải thích mầu nhiệm Truyền tin, Công đồng đã nói rằng Đức Trinh nữ Nazaret “khi lãnh nhận ý định cứu rỗi của Thiên Chúa, đã hoàn toàn hiến thân như là nữ tỳ của Chúa để phục vụ thân thế và sự nghiệp của Thánh tử Giêsu, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc ở dưới Đức Kitô và cùng với Đức Kitô, nhờ ơn sủng của Thiên Chúa toàn năng” (HT 56). Ngoài ra Công đồng trình bày Đức Maria không những như là “Thân mẫu của Đấng Cứu thế” mà còn như là “một người bạn hết sức quảng đại”, đã cộng tác “hết sức cách đặc biệt vào công trình của Chúa Cứu thế bằng sự tuân phục, đức tin, đức cậy và lòng mến nồng nàn”. Và Công đồng cũng nhắc tới hoa trái tuyệt diệu của sự cộng tác này, đó là chức làm mẹ phổ quát: “Chính vì thế Đức Maria đã trở thành mẹ của chúng ta trong hệ trật ân sủng” (HT 61)[4].

Vì vậy chúng ta có thể hướng về Đức Trinh nữ Rất thánh, tin tưởng khẩn nài Người cứu giúp, bởi vì ý thức được vai trò đặc biệt mà Thiên Chúa đã ủy thác cho Người, tức là vai trò cộng tác vào ơn Cứu chuộc, một vai trò đã được thi hành trong suốt cuộc đời và một cách đặc biệt ở dưới chân thập giá.



[1] Bài huấn giáo này được đọc ngày 3/4/1997, trùng vào thứ tư trong tuần Bát nhật lễ Phục sinh.  Tâm tình của Mẹ Maria vào dịp Chúa Phục sinh sẽ được bàn trong bài 51.

[2] Com-passio: cùng chịu khổ.

[3]  xem lại bài 23 (số 3).

[4] Chủ đề này sẽ được khai triển ở bài 64.

Chia sẻ Bài này:

Related posts

Leave a Comment