Ngàn Hoa Dâng Mẹ – Ngày 20

CHƯƠNG TRÌNH NGÀN HOA DÂNG MẸ

Thứ Ba, ngày 20/05/2014

 

PHẦN I. SUY NIỆM MẦU NHIỆM MÂN CÔI

1. KHAI MẠC

(hát hoặc đọc: xin ơn Chúa Thánh Thần)

1. Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần

Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường.

ÐK. Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.

2. Đọc: Kinh Đức Chúa Thánh Thần

Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con; chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.

Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.

Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.

 

2. TIN MỪNG

(theo lịch phụng vụ mỗi ngày)

Tin Mừng: Ga 14,27-31

27 Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.28 Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.29 Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.

30 Thầy sẽ không còn nói nhiều với anh em nữa, bởi vì Thủ lãnh thế gian đang đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy.31 Nhưng chuyện đó xảy ra là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy. Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây! ”

 

3. SUY NIỆM

 “Thầy yêu mến Chúa Cha
và làm đúng như Chúa Cha truyền dạy” (Ga 14,31).

Như Mẹ: Chúa Giêsu dạy các môn đệ về cách yêu mến Thiên Chúa. Yêu mến Thiên Chúa trước tiên là tuân giữ và sống như lời Ngài truyền dạy, rồi đáp lại tình yêu ấy bằng sự dấn thân cụ thể và quảng đại trong suốt cả cuộc đời của mình.

Với Mẹ: Lạy Chúa, nhìn lại hành trình sống đức tin, con chưa dám sống hết tình với Chúa qua việc yêu thương mọi người chung quanh. Và qua những biến cố trong cuộc sống, con chưa xác tín vào kế hoạch yêu thương của Chúa. Xin Chúa dạy con biết tin tưởng và phó thác cho tình yêu quan phòng của Chúa.

Nhờ Mẹ: Mẹ ơi, Mẹ là mẫu gương dâng mình cho Chúa, xin chỉ bảo con, để con cũng biết dâng hiến trọn vẹn đời mình cho Chúa. Xin Mẹ dắt dìu con bước tới gần Chúa hơn mỗi ngày.

 

4. LẦN HẠT MÂN CÔI

(tuỳ điều kiện: lần hạt 1 chục, 2 chục… 5 chục Kinh Mân Côi)

 

5. KẾT THÚC

(hát hoặc đọc)

1. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa

ĐK. Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í, a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tớ. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.

1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.

2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.

3. Lũ giàu sang đuổi về tay không, những người thanh bần ban đầy hồng phúc. Người đã nhớ lời hứa mà độ trì Ít-ra-en cùng tổ phụ Áp-ra-ham với miêu duệ.

2. Đọc: Thánh ca Tin Mừng
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat)

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn !

Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.

Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
Và cho con cháu đến muôn đời.

Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
tự muôn đời và chính hiện nay
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.

 

PHẦN II:  TÌM HIỂU VỀ ĐỨC MARIA

BÀI 39: VIỆC TIẾN DÂNG ĐỨC GIÊSU TRONG ĐỀN THỜ

Từ bài hôm nay, Đức Thánh Cha bước sang trình thuật dâng tiến Đức Giêsu trong đền thờ (Lc 2,22-38). Những tình tiết khác nhau của biến cố này trở thành đề tài suy niệm cho đến bài 43. Bài hôm nay chỉ mới gợi lên vài nét chính: việc trung thành tuân giữ lề luật; thái độ của người nghèo biểu lộ qua lễ phẩm; niềm trông đợi ơn cứu độ của dân Israel được mãn nguyện.

1.- Trong câu chuyện tiến dâng Đức Giêsu trong đền thờ, thánh Luca đã nêu bật số phận Đức Giêsu như là Mêsia. Theo bản văn của Luca, mục đích trực tiếp của việc Thánh gia hành hương từ Bêlem về Giêrusalem là để chu toàn lề luật: “Khi đã đến kỳ thanh tẩy của các ngài theo luật Môisen, bà Maria và ông Giuse đem hài nhi lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong luật Chúa rằng: mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh dành cho Chúa; và cũng để dâng hy lễ theo luật Chúa truyền là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (Lc 2,22-24).

Với cử chỉ này, bà Maria và ông Giuse bày tỏ ý định muốn trung thành vâng phục ý Chúa, khước từ hết mọi hình thức đặc ân. Việc hai ngài lên đền thờ Giêrusalem mang ý nghĩa của một sự hiến dâng cho Thiên Chúa, ngay tại nơi hiện diện của Ngài. Đức Maria vì nghèo khó nên chỉ dâng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu, nhưng, trên thực tế Người đã hiến dâng Chiên thật sẽ cứu chuộc nhân loại. Như vậy, bằng cử chỉ này, Người đã thực hiện trước thời gian hy lễ đích thực, mà Luật Cũ đã tiên báo qua các lễ tế.

2.- Tuy dù lề luật chỉ đòi buộc bà mẹ phải thanh tẩy sau khi sinh con, nhưng thánh Luca nói tới “kỳ thanh tẩy của các ngài” (2,22), có lẽ bởi vì muốn ám chỉ những lề luật chi phối cả người mẹ và người con đầu lòng.

Hạn từ “thanh tẩy” có thể gây ngạc nhiên cho chúng ta, bởi vì đang bàn đến một bà Mẹ mà do ơn thánh đặc biệt, đã được vô nhiễm thanh tịnh ngay từ lúc bắt đầu hiện hữu, và một Hài nhi hoàn toàn thánh thiện. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng ở đây không phải là chuyện thanh tẩy lương tâm cho khỏi tội lỗi, nhưng chỉ là phục hồi sự thanh khiết về nghi thức, điều mà, theo não trạng thời đó, đã bị hoen ố do việc sinh đẻ tuy dù không có mắc lỗi lầm nào về luân lý.

Thánh sử Luca đã lợi dụng cơ hội để nhấn mạnh một mối dây liên kết đặc biệt giữa Đức Giêsu, xét vì là “Trưởng nam” (Lc 2,7 và 23), và sự thánh thiện của Thiên Chúa, đồng thời cũng muốn ám chỉ tinh thần hiến dâng khiêm tốn của Đức Maria và ông Giuse (xc. Lc 2,24). Thực vậy, cặp chim gáy hay cặp bồ câu non là “hiến lễ của những người nghèo” (Lv 12,8).

3.- Trong đền thờ, ông Giuse và bà Maria đã gặp gỡ ông Simêon, một người công chính và sùng đạo mong chờ niềm an ủi của Israel” (Lc 2,25).

Trình thuật của Luca không nói gì đến quá khứ cũng như chức vụ của ông Simêon ở trong đền thờ, mà chỉ nói đến một con người hết sức sùng đạo đang nuôi dưỡng trong lòng sự khát khao mãnh liệt chờ đợi Đấng Mêsia, kẻ an ủi dân tộc Israel. Thực vậy “Thánh Thần… ngự trên ông” và “đã báo cho ông biết rằng ông sẽ không chết trước khi được thấy Đấng Mêsia của Chúa” (Lc 2,26).

Ông Simêon mời gọi chúng ta hãy nhìn ngắm hành vi lân tuất của Thiên Chúa, Đấng đã đổ tràn Thánh Thần trên các tín hữu của mình ngõ hầu hoàn tất dự án huyền nhiệm của tình yêu của Ngài. Ông Simêon, mẫu gương của con người mở rộng lòng tới tác động của Thiên Chúa, “do Thánh Thần thúc đẩy” (Lc 2,27), ông lên đền thờ, nơi mà ông gặp Đức Giêsu, ông Giuse và bà Maria. Ông ẵm lấy Hài nhi trên tay và chúc tụng Chúa rằng: ”Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi” (Lc 2,29).

Là một nhân vật biểu trưng cho Cựu ước, ông Simêon đã cảm nhận được niềm vui vì được gặp gỡ Đấng Mêsia và ông cảm thấy đã đạt tới mục tiêu cuộc đời; do đó ông đã có thể xin Đấng Tối Cao để về nơi an bình của thế giới bên kia.

Trong biến cố hiến dâng Chúa Giêsu vào đền thờ, chúng ta có thể nhận ra sự gặp gỡ của niềm hy vọng dân Israel với Đấng Mêsia. Chúng ta cũng có thể nhận ra một dấu hiệu tiên báo sự gặp gỡ giữa con người với Đức Kitô. Sở dĩ cuộc gặp gỡ này có thể thực hiện được là bởi vì Chúa Thánh Thần gợi lên trong con tim nỗi khát khao được tìm gặp Đấng Cứu Thế, và Chúa Thánh Thần cũng tạo điều kiện để cho niềm trông mong đó được toại nguyện[1].

Chúng ta cũng không nên bỏ qua vai trò của Đức Maria khi trao Hài nhi cho ông cụ Simêon. Do ý muốn của Thiên Chúa, chính là bà Mẹ đã ban Chúa Giêsu cho nhân loại.

4.- Khi mặc khải tương lai của Đấng Cứu Thế, ông già Simêon đã nhắc tới lời tiên tri của “người Tôi tớ” được sai tới Dân ưu tuyển và các dân tộc. Thiên Chúa đã nói với ông ta như sau: “Ta đã nhào nặn nên ngươi và đã đặt ngươi làm giao ước của dân tộc và ánh sáng cho muôn dân” (Is 42,6). Và còn thêm: “Thật là chẳng thấm thía gì việc ngươi là tôi tớ của Ta để chấn hưng lại các bộ lạc Giacóp và đưa những đồng bào Israel còn sống sót được hồi cư. Ta sẽ biến ngươi thành ánh sáng của muôn dân ngõ hầu ngươi mang ơn cứu độ của Ta cho tới tận cùng trái đất” (Is 49,6).

Trong bài ca, ông Simêon đã lật ngược lại viễn ảnh, vì đã đặt chiều kích phổ quát của sứ mạng Đức Giêsu lên hàng đầu: “Chính mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân, ánh sáng soi đường cho dân ngoại và vinh quang của Israel dân Người” (Lc 2,30-32).

Làm sao không khỏi ngạc nhiên đứng trước những lời đó? “Cha mẹ Hài nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon vừa nói về Người” (Lc 2,33). Dĩ nhiên ông Giuse và bà Maria, với cảm nghiệm vừa rồi, đã hiểu rõ ràng hơn tầm quan trọng của việc hiến dâng của mình. Trong đền Giêrusalem họ đã hiến dâng Đấng là vinh quang của dân tộc mình và cũng là sự cứu độ của toàn thể nhân loại.

 

BÀI 40: LỜI TIÊN BÁO CỦA ÔNG SIMÊON

LIÊN KẾT ĐỨC MARIA

VỚI SỐ PHẬN ĐAU KHỔ CỦA CON MÌNH

Trong bài trước, Đức Thánh Cha trình bày quang cảnh tổng quát của việc tiến dâng Đức Giêsu trong đền thờ, lần này, ngài dừng lại ở lời tiên báo của ông Simêon dành cho Mẹ Maria. Người sẽ chia sẻ số phận đau khổ của Chúa Cứu thế. Những lời tiên báo này được coi như “lời truyền tin thứ hai”, bổ túc cho lời thiên sứ Gabriel nói về sứ mạng của Thân mẫu Đấng Mêsia.

1.- Sau khi đã nhận ra nơi Đức Giêsu “ánh sáng soi đường cho dân ngoại” (Lc 2,32), ông Simêon đã loan báo cho Đức Maria biết về cuộc thử thách lớn lao dành cho Đấng Mêsia và sự thông phần của bà mẹ vào số phận đau thương đó.

Việc đề cập tới hy lễ cứu chuộc, điều mà trước đây thiên sứ không đả động đến vào lúc Truyền tin, cho thấy sấm ngôn của ông Simêon tương đương với “cuộc truyền tin thứ hai” (Thân mẫu Đấng Cứu thế số 16), đưa Đức Maria tới chỗ hiểu biết sâu xa hơn về mầu nhiệm của Con mình.

Cho tới lúc này, ông Simêon đã ngỏ lời với tất cả mọi người hiện diện, cách riêng ông đã chúc phúc cho ông Giuse và bà Maria; nhưng bây giờ ông chỉ loan báo cho Đức Maria rằng bà sẽ thông dự vào số phận của Con mình. Được Thánh Thần linh ứng, ông loan báo như sau: “Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy, dấu hiệu bị người đời chống báng – còn phần bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu hồn bà-, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2, 34-35).

2.- Những lời này tiên báo một tương lai đau khổ dành cho Đấng Mêsia. Thực vậy chính Người là “dấu hiệu bị người đời chống báng”, sẽ gặp một sự đối kháng về phía người đương thời của mình. Nhưng ông Simêon cũng liên kết vào những đau khổ của Đức Kitô hình ảnh tâm hồn của Đức Maria bị một lưỡi gươm đâm thâu, và như vậy đã liên kết người Mẹ vào chung một với số phận đau khổ của người Con.

Vì thế, cụ già Simêon, sau khi vạch ra sự chống đối càng ngày càng gia tăng mà Đấng Mêsia gặp phải, thì cũng nhấn mạnh tới sự đau khổ ấy tràn sang trái tim của bà Mẹ. Sự đau khổ của người mẹ sẽ đạt tới cao điểm vào lúc tử nạn, khi ma Người kết hiệp với Con của mình trong hy lễ cứu chuộc.

Sau khi đã nhắc tới những bài ca đầu tiên về người Tôi tớ của Chúa (Is 42,4-6; 49,6) được lặp lại ở Lc 2,32[2], bây giờ những lời của ông Simêon làm cho chúng ta liên tưởng tới lời tiên tri về người Tôi tớ đau khổ (Is 52,13-53,12), “bị đâm thâu” vì tội lỗi chúng ta (Is.53,5), người đã dâng mình “làm của lễ xá tội” (Is 53,10) qua hiến lễ của bản thân, vượt xa các hy tế theo nghi thức cổ truyền.

Ở đây chúng ta có thể ghi nhận rằng lời tiên báo của ông Simêon cho thấy sự đau khổ tương lai của Đức Maria có điểm tương đồng với tương lai đau khổ của “Người Tôi tớ”.

3.- Bà Maria và ông Giuse đã tỏ vẻ ngạc nhiên không ít khi nghe ông Simêon tuyên bố rằng Đức Giêsu là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại và vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 2,32). Còn khi nói tới lời tiên báo về lưỡi gươm sẽ đâm qua hồn, bà Maria không nói gì hết. Cùng với ông Giuse, bà đã thinh lặng đón nhận những lời bí nhiệm cho thấy một cuộc thử thách rất là đau thương, và bày tỏ ý nghĩa sâu xa của việc tiến dâng Chúa Giêsu vào đền thờ. Thực vậy theo ý định của Thiên Chúa, hy lễ của “một đôi chim gáy hay đôi bồ câu non theo luật truyền” (Lc 2,24) chỉ là điềm báo của hy lễ của Đức Giêsu, “hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11, 29). Trong hy lễ đó, cuộc “tiến dâng” trọn nghĩa sẽ được thực hiện và Đức Maria sẽ được kết hiệp với Con mình vào công trình cứu chuộc.

4.-Tiếp theo lời tiên báo của ông Simêon là cuộc gặp gỡ với bà tiên tri Anna: “Bà ta cũng tiến lại gần cảm tạ Chúa, và nói về Hài nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem”(2, 38). Niềm tin và sự khôn ngoan ngôn sứ của bà cụ, – một người đã “phục vụ Thiên Chúa ngày đêm” (Lc 2, 37), nuôi dưỡng niềm trông mong Đấng Mêsia bằng việc ăn chay cầu nguyện-, đã cống hiến thêm cho Thánh gia một động lực sâu xa hơn để đặt hy vọng vào Thiên Chúa của Israel. Trong một giây phút trọng đại này, đối với Đức Maria và ông Giuse thì thái độ của bà Anna xuất hiện như là một dấu hiệu của Thiên Chúa, một sứ điệp của đức tin trong sáng và sự phục vụ tận tụy.

Kể từ lời tiên báo của ông Simêon, Đức Maria đã kết hiệp chặt chẽ cuộc đời của mình với sứ mạng đau khổ của Đức Kitô: Người sẽ trở thành người hợp tác chung thủy với Con mình nhằm cứu rỗi nhân loại.



[1]đoạn văn này chứa đựng cả một nền thần học về ơn cứu rỗi của người ngoại đạo. Chúa Thánh Thần đã dàn xếp để cho ông Simêon (tín đồ Do thái) được gặp gỡ Chúa Cứu Thế, nghĩa là được cứu rỗi. Đức Thánh Cha muốn mở rộng nhãn giới họat động của Chúa Thánh Thần: Ngài đã khơi lên trong tâm hồn của biết bao nhiêu người lòng khao khát được cứu rỗi, nghĩa là lòng khao khát được gặp gỡ Chúa Cứu Thế. Cũng chính Chúa Thánh Thần tạo điều kiện để cho lòng khao khát ấy được toại nguyện. Xc. Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, số 22; GLCG số 851-852.

[2]  Người tôi tớ được đặt là, “giao ước với Israel và ánh sáng muôn dân”, xc.  bài 39.

Chia sẻ Bài này:

Related posts

Leave a Comment