- Legio Mariae – Đạo Binh Đức Mẹ - https://daobinh.com -

Ngàn Hoa Dâng Mẹ – Ngày 19

CHƯƠNG TRÌNH NGÀN HOA DÂNG MẸ

Thứ Hai, ngày 19/05/2014

 

PHẦN I. SUY NIỆM MẦU NHIỆM MÂN CÔI

1. KHAI MẠC

(hát hoặc đọc: xin ơn Chúa Thánh Thần)

1. Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần

Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường.

ÐK. Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.

2. Đọc: Kinh Đức Chúa Thánh Thần

Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con; chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.

Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.

Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.

 

2. TIN MỪNG

(theo lịch phụng vụ mỗi ngày)

Tin Mừng: Ga 14,21-26

21 Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.”

22 Ông Giu-đa, không phải Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian? “23 Đức Giê-su đáp: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.24 Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.25 Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em.26 Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

 

3. SUY NIỆM

 “Đấng bảo trợ là Thánh Thần…
Đấng ấy sẽ dạy anh em mọi điều” (Ga 14,26).

Như Mẹ: Thiên Chúa không bao giờ để mặc chúng ta trước những vấn đề vượt qua giới hạn của mình. Người luôn bên cạnh và hướng dẫn chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Chỉ khi nào sống theo sự hướng dẫn của Thần Khí, chúng ta mới có được bình an và hạnh phúc đích thực.

Với Mẹ: Lạy Chúa, có nhiều lúc chúng con mải mê tìm kiếm lời giải thích cho nhiều vấn đề trong cuộc sống dựa vào sức của mình và quên chạy đến vị cố vấn tuyệt vời mà Chúa ban là Chúa Thánh Thần. Xin mở con mắt, lỗ tai chúng con để chúng con nhìn và nghe thấy tiếng nói của Ngài mà làm theo lời Ngài hướng dẫn.

Nhờ Mẹ: Xin Mẹ giúp chúng con noi gương Mẹ luôn sống thánh ý Chúa qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

 

4. LẦN HẠT MÂN CÔI

(tuỳ điều kiện: lần hạt 1 chục, 2 chục… 5 chục Kinh Mân Côi)

 

5. KẾT THÚC

(hát hoặc đọc)

1. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa

ĐK. Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í, a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tớ. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.

1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.

2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.

3. Lũ giàu sang đuổi về tay không, những người thanh bần ban đầy hồng phúc. Người đã nhớ lời hứa mà độ trì Ít-ra-en cùng tổ phụ Áp-ra-ham với miêu duệ.

2. Đọc: Thánh ca Tin Mừng

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat)

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn !

Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.

Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
Và cho con cháu đến muôn đời.

Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
tự muôn đời và chính hiện nay
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.

 

PHẦN II:  TÌM HIỂU VỀ ĐỨC MARIA

BÀI 37: ĐỨC MARIA, THÂN MẪU THIÊN CHÚA

Ngay từ những thế kỷ đầu tiên, các Kitô hữu đã cầu khẩn Đức Maria dưới tước hiệu “Theotokos”, Đức Mẹ Chúa Trời. Tước hiệu này được công đồng Êphêsô long trọng tuyên bố năm 431. Tín điều này tiên vàn tuyên xưng rằng Đức Kitô chỉ có một ngôi vị duy nhất. Đức Maria, tuy chỉ là mẹ của Đức Kitô xét theo nhân tính, nhưng chức làm mẹ có liên quan đến ngôi vị. Dù sao, khi tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Hội thánh cũng khẳng định rằng Ngôi Lời đã thực sự trở thành con người, do một bà mẹ sinh ra.

1.- Việc chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Cứu Thế giáng sinh đã đưa các tín hữu không những gọi Đức Trinh Nữ rất thánh là Mẹ của Đức Giêsu, mà còn nhìn nhận Người là Mẹ của Thiên Chúa.

Chân lý này đã được đào sâu và cảm nhận như là một điều thuộc về gia sản đức tin của Hội thánh ngay từ những thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Kitô giáo, và công đồng Êphêsô tuyên bố long trọng năm 431.

Trong cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, khi các môn đệ càng ý thức rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa thì họ cũng càng thâm tín rằng Đức Maria là Theotokos, Mẹ của Thiên Chúa[1]. Tước hiệu này không xuất hiện rõ ràng trong các bản văn Phúc âm, tuy rằng ở đây ta thấy nói tới “Mẹ của Đức Giêsu” và Đức Giêsu là Thiên Chúa (Ga 20,28; xc. 5,18; 10,30.33). Dù sao Đức Maria được giới thiệu như là Mẹ của Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1,22-23).

Từ thế kỷ III, như có thể suy diễn từ một chứng tá cổ điển, các Kitô hữu ở Ai cập đã hướng tới Đức Maria với lời cầu nguyện như sau: “Lạy Đức Mẹ Chúa Trời, Ngài xiết bao thánh thiện, này chúng con chạy đến tìm nương ẩn nơi Ngài. Lúc sa vòng gian khổ, khi gặp cảnh phong trần, lời con cái nài van, xin Mẹ đừng chê bỏ, nhưng xin hằng giải thoát, khỏi ngàn nỗi hiểm nguy, ôi vinh diệu ai bì, Trinh nữ đầy ơn phúc!” (xc. Giờ Kinh Phụng Vụ). Trong chứng tá cổ kính này, lần đầu tiên từ ngữ Theotokos “Đức Mẹ Chúa Trời” đã được sử dụng một cách minh thị.

Trong các huyền thoại của dân ngoại, thường thường có trường hợp một nữ thần được trình bày như là bà mẹ của một vị thần. Chẳng hạn như vị chủ tể Jupiter chúa tể có bà mẹ tên là nữ thần Rea.

Bối cảnh này có lẽ đã giúp cho các Kitô hữu tạo ra tước hiệu “Theotokos”, “Thánh Mẫu” dành cho bà mẹ của Đức Giêsu. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng tước hiệu này chưa hề được sử dụng, nhưng là do các Kitô hữu đặt ra để diễn tả một lòng tin hoàn toàn khác với thần thoại của dân ngoại: đức tin vào việc thụ thai trinh khiết, trong lòng Đức Maria, của Đấng vốn là Ngôi Lời hằng hữu của Thiên Chúa.

2.- Đầu thế kỷ thứ IV, tước hiệu Théotokos đã trở thành thông dụng bên Đông phương và bên Tây phương. Kinh nguyện cũng như thần học sử dụng thường xuyên tước hiệu này, đã đi vào gia sản đức tin của Hội thánh.

Vì thế người ta hiểu được rằng cả một phong trào chống đối đã nổi lên vào thế kỷ thứ V, khi ông Nestoriô đặt ra nghi vấn về sự hợp thức của danh hiệu “Thân mẫu Chúa Trời”.

Thực vậy, ông ta có khuynh hướng muốn nhìn nhận Đức Maria chỉ là mẹ của con người Giêsu, và ông cho rằng tước hiệu duy nhất phù hợp với đạo lý là “Thân mẫu của Đức Kitô”. Ông Nestoriô đã rơi vào sự sai lầm như vậy bởi vì ông gặp thấy khó khăn khi chấp nhận một ngôi vị duy nhất của Đức Kitô, và do việc giải thích sai lầm về sự phân biệt giữa nhân tính và thiên tính hiện diện trong Đức Kitô[2].

Công đồng Ephêsô (năm 431) đã phi bác thuyết của ông Nestôriô, và khẳng định rằng thiên tính và nhân tính đồng hiện hữu nơi một ngôi vị duy nhất của Chúa Con. Công đồng tuyên bố Đức Maria là Đức Mẹ Chúa Trời.

3.- Những khó khăn và vấn nạn do ông Nestôriô nêu lên đã cống hiến cơ hội cho chúng ta suy nghĩ chín chắn, ngõ hầu hiểu biết và giải thích tước hiệu này một cách đứng đắn. Thành ngữ Theotokos, theo nguyên văn có nghĩa là “Kẻ đã sinh ra Thiên Chúa”[3], thoạt tiên xem ra kỳ dị. Thực vậy, nó gợi lên câu hỏi: làm thế nào một thụ tạo có thể sinh ra Thiên Chúa? Câu trả lời của đức tin Hội thánh thì đã quá rõ: chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria chỉ áp dụng vào việc sinh ra Con Thiên Chúa theo tính loài người mà thôi, chứ không áp dụng vào việc sinh ra bản tính Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã được sinh ra từ thuở đời đời bởi Chúa Cha và đồng bản tính với Chúa Cha. Trong sự sinh ra hằng hữu này, dĩ nhiên là Đức Maria không có vai trò nào hết. Tuy nhiên Con Thiên Chúa, cách đây 2000 năm, đã lãnh nhận bản tính loài người của chúng ta, và do đó đã được thụ thai và sinh ra bởi Đức Maria.

Khi tuyên xưng Đức Maria là “Đức Mẹ Chúa Trời” Hội thánh muốn khẳng định rằng Đức Maria là “Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng là Thiên Chúa. Do đó chức làm mẹ của Người không áp dụng cho tất cả Ba ngôi Thiên Chúa nhưng chỉ liên can đến Ngôi Hai, tức là Chúa Con Đấng mà khi nhập thể, đã lãnh nhận bản tính loài người từ nơi Đức Maria.

Việc làm mẹ là một mối tương quan giữa hai bản vị: một bà mẹ không phải chỉ là mẹ của thân xác hay là của chất thể sinh ra từ lòng mình, nhưng là mẹ của ngôi vị mà mình sinh ra.

Vì thế, Đức Maria đã sinh ra Đức Giêsu, một bản vị xét về nhân tính mà cũng là một ngôi vị Thiên Chúa, cho nên Người thực sự là Mẹ của Thiên Chúa.

Khi công bố Đức Maria là “Đức Mẹ Chúa Trời”, Hội thánh đã tuyên xưng đức tin về người Con và người Mẹ trong cùng một biểu thức duy nhất. Sự kết hợp này đã được nổi bật ngay tại công đồng Ephêsô: qua việc định tín chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, các nghị phụ đã muốn bày tỏ đức tin vào thiên tính của Đức Kitô. Mặc dù đã có nhiều vấn nạn xưa nay được trưng lên để chống lại việc sử dụng tước hiệu Đức Mẹ Chúa Trời, nhưng các Kitô hữu thuộc mọi thời đại, khi giải thích đứng đắn ý nghĩa của chức làm mẹ đó, họ đã tìm thấy một biểu thức đặc biệt để diễn tả niềm tin vào thiên tính của Đức Kitô và của lòng yêu mến đối với Đức Trinh nữ Maria.

Nơi Đức Theotokos, một đàng Hội thánh bảo đảm rằng việc Nhập thể đã xảy ra thực sự, bởi vì – như Thánh Augustino đã nói – “giả như bà Mẹ mà giả thì thân xác của Đức Kitô cũng giả, … những vết thương còn mang sau khi Phục sinh cũng giả tuốt” (Tractatus in evangelium Ioannis, 8, 6-7). Đàng khác, Hội thánh sững sờ chiêm ngắm và cung kính cử hành sự cao cả được ban cho Đức Maria bởi Đấng đã muốn làm Con của Người. Tước hiệu “Đức Mẹ Chúa Trời” cũng hướng tới Lời của Thiên Chúa, Đấng mà qua mầu nhiệm Nhập Thể đã mặc lấy sự khiêm tốn của thân phận con người chúng ta, ngõ hầu nâng con người lên hàng nghĩa tử của Thiên Chúa. Ngoài ra, tước hiệu đó, dưới ánh sáng của chức phẩm cao vời dành cho thiếu nữ Nazaret, cũng tuyên dương sự cao quý của phụ nữ và thiên chức của họ. Thực vậy, Thiên Chúa đã đối xử với Đức Maria như là một bản vị tự do và có trách nhiệm, và chỉ có thể thực hiện việc Nhập thể của Con Ngài sau khi nhận được sự thỏa thuận của Đức Maria.

Theo gương các Kitô hữu tại Ai cập thời xưa, các tín hữu ký thác mình cho Người, vì là Đức Mẹ Chúa Trời, nên có thể xin Con mình cho họ ơn giải thoát khỏi mọi nỗi nguy nan và ơn được cứu rỗi đời đời.

 

BÀI 38: NHÀ GIÁO DỤC CON THIÊN CHÚA

Đức Maria thi hành chức vụ làm Mẹ của Đức Giêsu không nguyên chỉ vì đã sinh ra Người, nhưng còn góp phần vào việc giáo dục con mình được trưởng thành dưới khía cạnh nhân bản và đạo đức. Công tác này không đơn giản gì, bởi vì lắm lần từ chỗ làm “nhà giáo”, bà mẹ đã trở thành học trò của Con mình.

1.-Tuy rằng cuộc sinh hạ Đức Giêsu được thực hiện do tác động của Chúa Thánh Thần và của một người Mẹ trinh khiết, nhưng việc này cũng diễn ra giống như hoàn cảnh của những con người khác, trải qua các giai đoạn thụ thai, cưu mang và sinh hạ. Ngoài ra, chức vụ làm mẹ của Đức Maria không chỉ hạn chế vào sinh đẻ, nhưng tựa như các bà mẹ khác, bà mẹ còn góp phần quan thiết để đứa con được tăng trưởng và phát triển. Đức Maria không phải chỉ là một người đàn bà sinh một đứa con, nhưng còn nuôi nấng và dưỡng dục nó; hơn thế nữa, chúng ta có thể nói rằng, dựa theo chương trình của Thiên Chúa, việc giáo dục là sự kéo dài đương nhiên của việc sinh đẻ.

Đức Maria là Theotokos không những vì đã sinh ra Con Thiên Chúa mà còn vì đã đồng hành Ngài trong sự trưởng thành về nhân tính.

2.- Ta có thể tưởng tượng rằng Đức Giêsu đã có hết mọi sự sung mãn của thiên tính, cho nên không cần đến người giáo dục nữa. Tuy nhiên mầu nhiệm Nhập thể cho chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến trần gian trong một điều kiện con người hoàn toàn giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi (xc. Dt 4,15). Cũng như đã xảy ra cho hết mọi con người, sự trưởng thành của Đức Giêsu từ thuở thiếu thời cho tới lúc tráng niên (xc Lc 2,40) đòi phải có việc giáo dục của cha mẹ.

Tin Mừng thánh Luca, lưu ý cách riêng đến giai đoạn thơ ấu của Đức Giêsu, kể lại rằng tại Nazaret Người đã tùng phục ông Giuse và bà Maria (xc. Lc 2,51). Sự tùng phục như vậy cho thấy rằng Đức Giêsu có thái độ sẵn sàng lãnh nhận công tác giáo dục về phía bà mẹ của mình và ông Giuse; các ngài thực thi chức vụ này cũng nhờ thái độ ngoan ngoãn mà Đức Giêsu tỏ ra đối với họ.

3.- Những hồng ân đặc biệt mà Chúa đã đổ tràn trên Đức Maria, đã giúp Người có đủ khả năng thích hợp để chu toàn sứ mạng làm bà mẹ và nhà giáo dục. Trong những hoàn cảnh cụ thể hằng ngày, Đức Giêsu có thể tìm thấy nơi bà mẹ một khuôn mẫu để theo dõi và bắt chước, một tấm gương về tình yêu toàn thiện đối với Thiên Chúa và anh chị em.

Bên cạnh sự hiện diện của Đức Maria hiền mẫu, Đức Giêsu còn có thể tìm thấy khuôn mặt hiền phụ của ông Giuse, người công chính (xc. Mt 1,19),bảo đảm cho sự quân bình cần thiết của công tác giáo dục. Khi thi hành chức vụ làm cha, ông Giuse đã hợp tác với vợ mình để biến căn nhà Nazaret thành một môi trường thuận tiện cho sự trưởng thành của Đấng Cứu độ loài người. Và rồi khi tập cho Đức Giêsu làm thợ mộc, ông Giuse đã đưa Người đi vào thế giới lao động và đời sống xã hội.

4.- Những chi tiết ít ỏi mà chúng ta lượm được từ Phúc âm không cho phép chúng ta biết rõ hơn và đánh giá những hình thái sư phạm mà Đức Maria đã áp dụng cho Con mình. Điều chắc chắc là Đức Maria cùng với thánh Giuse đã dẫn dắt Đức Giêsu vào những lễ nghi và luật truyền của ông Môisen, vào lời kinh dâng lên Thiên Chúa của Giao ước bằng việc đọc các thánh vịnh, vào lịch sử của dân tộc Israel tựu trung nơi cuộc xuất hành ra khỏi Ai cập. Đức Giêsu đã học nơi Mẹ Maria và ông Giuse thói quen năng vào hội đường và thi hành cuộc hành hương hằng năm lên đền Giêrusalem nhân lễ Vượt qua.

Khi nhìn đến các kết quả, chắc hẳn chúng ta có thể suy diễn rằng việc giáo dục của Đức Maria đã đâm rễ sâu và đã tìm thấy nơi tâm thức của Đức Giêsu một mảnh đất rất là trù phú.

5.- Công tác giáo dục của Đức Maria, dành cho một người con rất đặc biệt, mang một vài tính chất khác thường so với vai trò của các bà mẹ khác. Đức Maria chỉ bảo đảm một vài điều kiện thích hợp để có thể phát triển những động cơ và những giá trị của sự tăng trưởng, đã hiện hữu nơi Con của mình. Thí dụ Đức Giêsu chẳng hề có tội lỗi gì, vì thế mà Mẹ Maria cần phải chuyển hướng về phía tích cực, chứ không cần phải can thiệp để sửa bảo trừng phạt. Ngoài ra, nếu Đức Maria đã dẫn dắt Đức Giêsu vào nền văn hóa và tập tục của dân tộc Israel, thì chính Đức Giêsu sẽ bày tỏ cho Mẹ, từ biến cố tìm gặp lại Người trong đền thờ, ý thức rõ rệt rằng Người là Con Thiên Chúa, được sai tới để chiếu tỏa chân lý vào thế giới và Người chỉ vâng phục ý định Chúa Cha mà thôi. Từ chỗ là “nhà giáo” của Con mình, Đức Maria đã trở nên một môn sinh khiêm tốn của Thầy mà mình đã sinh ra.

Dù sao, chúng ta cũng thấy vẻ cao trọng của chức vụ làm mẹ của Đức Maria: Người đã giúp đỡ con Giêsu của mình, từ thuở sơ sinh cho tới lúc trưởng thành, được “lớn lên trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng” (Lc 2,52), và được đào tạo để thi hành sứ mạng tương lai.

Vì thế, Đức Maria và ông Giuse trở thành khuôn mẫu của hết mọi nhà giáo dục. Các ngài nâng đỡ họ trong những nỗi khó khăn lớn lao mà ngày nay gia đình gặp phải, và các ngài trưng bày cho họ con đường tiến tới một sự đào tạo có hiệu quả sâu đậm đối với con cái.

Kinh nghiệm giáo dục của các ngài tạo nên một điểm quy chiếu chắc chắn cho các bậc cha mẹ Kitô giáo, những người cũng được kêu gọi phục vụ sự tăng trưởng toàn diện của con cái mình, trong những điều kiện mỗi ngày một phức tạp và khó khăn hơn, ngõ hầu chúng sống một cuộc đời xứng đáng với con người và đáp ứng chương trình của Thiên Chúa.



[1] Như đã nói trước đây, danh hiệu này có thể dịch nhiều kiểu: Mẹ của Thiên Chúa, Thân mẫu Thiên Chúa, Đức Mẹ Chúa Trời.

[2] Xc. GLCG số 466.

[3] Tương đương với Dei Genitrix trong tiếng latinh.

Chia sẻ Bài này:
[1] [2] [3]