Ngàn Hoa Dâng Mẹ – Ngày 16

CHƯƠNG TRÌNH NGÀN HOA DÂNG MẸ

Thứ Sáu, ngày 16/05/2014

 

PHẦN I. SUY NIỆM MẦU NHIỆM MÂN CÔI

1. KHAI MẠC

(hát hoặc đọc: xin ơn Chúa Thánh Thần)

1. Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần

Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường.

ÐK. Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.

2. Đọc: Kinh Đức Chúa Thánh Thần

Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con; chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.

Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.

Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.

 

2. TIN MỪNG

(theo lịch phụng vụ mỗi ngày)

Tin Mừng: Ga 14,1-6

1 Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.2 Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em.3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”

5 Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường? “6 Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.

 

3. SUY NIỆM

 “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1).

Như Mẹ: Chúa Giêsu mời gọi mỗi người hãy tin vào Thiên Chúa, nhất là tin vào ơn cứu độ mà Người mang đến cho nhân loại. Không phải tin nơi đầu môi chót lưỡi nhưng tin bằng cả tâm hồn, cả trái tim qua việc dám bỏ mình và phó thác trọn vẹn cuộc đời mình trong tay Chúa.

Với Mẹ: Lạy Chúa, nhiều biến cố, những khó khăn, những tội ác và bất công xảy đến khiến chúng con không thể giải thích và không dám can đảm tin rằng tất cả đang xảy ra theo một kế hoạch quan phòng của Chúa! Xin thêm sức mạnh cho chúng con, để trong mọi hoàn cảnh, chúng con vẫn một lòng tin vào Chúa.

Nhờ Mẹ: Mẹ đã tin vào Chúa luôn, ngay cả khi chứng kiến con mình bị đóng đinh trên thập giá. Xin Mẹ dạy con biết noi theo đức tin của Mẹ.

 

4. LẦN HẠT MÂN CÔI

(tuỳ điều kiện: lần hạt 1 chục, 2 chục… 5 chục Kinh Mân Côi)

 

5. KẾT THÚC

(hát hoặc đọc)

1. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa

ĐK. Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í, a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tớ. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.

1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.

2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.

3. Lũ giàu sang đuổi về tay không, những người thanh bần ban đầy hồng phúc. Người đã nhớ lời hứa mà độ trì Ít-ra-en cùng tổ phụ Áp-ra-ham với miêu duệ.

2. Đọc: Thánh ca Tin Mừng
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat)

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn !

Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.

Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
Và cho con cháu đến muôn đời.

Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
tự muôn đời và chính hiện nay
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.

 

PHẦN II:  TÌM HIỂU VỀ ĐỨC MARIA

BÀI 31: ĐỨC MARIA TRỌN ĐỜI ĐỒNG TRINH

Mặc dù Tân ước nhấn mạnh đến sự trinh khiết của Đức Maria lúc cưu mang Chúa Giêsu, nhưng Hội thánh tin rằng Đức Maria giữ mình trinh khiết suốt đời. Điều này xem ra đã được gói ghém trong tính từ “Trinh nữ” dành cho Đức Maria (Lc 1,27). Dù sao, đức tin của Hội thánh đã được diễn tả trong các tín biểu qua các dụng ngữ “trọn đời đồng trinh”, hoặc “đồng trinh trước khi sinh, đang khi sinh và sau khi sinh”.

1.- Hội thánh luôn bày tỏ niềm tin nơi sự trinh khiết trọn đời của Đức Maria. Những bản văn cổ điển nhất, khi nói tới việc thụ thai Đức Giêsu, đã gọi Đức Maria cách đơn sơ là “người Trinh nữ”, ra như muốn cho thấy rằng đức tính này là một sự kiện bền bỉ, kéo dài suốt cuộc đời.

Các Kitô hữu ở những thế kỷ đầu tiên đã diễn tả niềm xác tín đó qua một từ ngữ bằng tiếng Hy lạp aeiparthenos -“trọn đời đồng trinh”- một tính từ được đặt ra để diễn tả cách độc đáo và chính xác thân thế của Đức Maria và cô đọng trong một từ ngữ niềm tin của Hội thánh vào sự trinh khiết trọn đời của Người. Chúng ta thấy từ ngữ này được sử dụng ở tín biểu thứ hai của thánh Epiphanio, vào năm 374, khi bàn đến việc Nhập thể: Con Thiên Chúa “đã nhập thể, nghĩa là đã được sinh ra cách hoàn hảo bởi Thánh Maria, trọn đời đồng trinh, nhờ Chúa Thánh Thần” (Ancoratus, 119,5).

Từ ngữ “trọn đời đồng trinh” được lặp lại ở công đồng Constantinôpôlis II (năm 553), khi khẳng định rằng: Ngôi Lời Thiên Chúa, “được nhập thể và được sinh ra bởi Thánh mẫu Thiên Chúa Đức Maria vinh hiển và trọn đời đồng trinh”. Đạo lý này còn được xác nhận bởi hai công đồng chung, – Latêranô IV (1215) và Lyon II (1274) -, và bởi đoạn văn tuyên bố tín điều Mẹ lên trời (1950), trong đó sự trinh khiết trọn đời của Đức Maria được trưng dẫn như là một trong những động lực của việc hồn xác được cất nhắc vào vinh quang trên trời.

2.- Qua một công thức ngắn gọn, truyền thống Hội thánh đã trình bày Đức Maria như là “trinh khiết trước khi sinh, trong khi sinh, sau khi sinh”; như thế qua việc chỉ định ba giai đoạn, muốn nêu bật rằng Đức Maria không hề bao giờ mất sự trinh khiết.

Trong ba giai đoạn vừa kể, đã hẳn sự khẳng định trinh khiết “trước khi sinh” là điểm quan trọng hơn cả, bởi vì liên quan đến việc thụ thai Đức Giêsu và liên hệ trực tiếp tới mầu nhiệm Nhập thể. Ngay từ đầu, chân lý này đã được kể vào đức tin của Hội thánh.

Sự trinh khiết “trong khi sinh” và “sau khi sinh”, tuy đã hàm chứa trong danh hiệu “trinh nữ” được gán cho Đức Maria ngay từ đầu của Hội thánh, nhưng chỉ trở thành đối tượng cho sự đào sâu đạo lý từ khi mà có người bắt đầu tỏ dấu hoài nghi. Đức Giáo Hoàng Ormisđa xác định rằng “Con Thiên Chúa trở thành Con Người, được sinh ra trong thời gian theo cách thức của một người, mở lòng dạ của mẹ mình vào lúc sinh và, do quyền năng của Thiên Chúa, đã không làm phá hủy sự trinh khiết của người mẹ”. Đạo lý này đã được công đồng Vaticano II xác nhận, khi nói rằng người Con đầu lòng của Đức Maria “đã không làm suy giảm nhưng đã thánh hiến sự tinh tuyền khiết trinh của Người” (HT 57).

Về sự trinh khiết sau khi sinh, thì tiên vàn cần phải lưu ý là không có lý do gì để nghĩ rằng ý định giữ mình đồng trinh, được Đức Maria bày tỏ vào lúc Truyền tin (Lc 1,34), sau đó lại thay đổi. Ngoài ra, ý nghĩa trực tiếp của những lời mà Chúa Giêsu từ thập giá ngỏ với Đức Maria và với môn đệ yêu dấu – “Người nữ ơi, đây là con của bà”; “đây là mẹ của con” (Ga 19, 26) -, giả thiết rằng lúc đó Đức Maria không có đứa con nào khác đang có mặt.

Những người phủ nhận sự trinh khiết của Đức Maria sau khi sinh cho rằng có thể tìm thấy chứng cớ ở nơi từ ngữ “con đầu lòng” mà Phúc âm đã gắn cho Đức Giêsu (Lc 2, 7), ra như giả thiết rằng sau đó Đức Maria còn có những con khác. Tuy nhiên tiếng “con đầu lòng” chỉ có nghĩa là đứa con không có “anh chị nào” trước, chứ tự nó không đả động gì đến những đứa con theo sau. Ngoài ra, thánh sử muốn nhấn mạnh tới đặc tính này của Chúa Giêsu, bởi vì, khi sinh người con đầu lòng, luật Do thái đã đòi hỏi phải tuân giữ môt vài điều, bất kể sau đó bà mẹ có sinh thêm con khác nữa hay không. Do đó, đứa con một cũng bị lệ thuộc vào những điều truyền đó, bởi vì nó “được sinh ra trước hết”(xc. Lc 2, 23).

3.- Theo một vài tác giả, sự trinh khiết của Đức Maria sau khi sinh cũng bị phủ nhận bởi những đoạn văn Phúc âm nói tới bốn “anh em của Đức Giêsu”: Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa (Mt 13, 55-56; Mc 6, 3), và một vài chị em.

Nên biết rằng, trong tiếng Do thái cũng như trong tiếng Arameo, không có một danh từ riêng để ám chỉ người “anh em họ”; vì thế từ ngữ “anh em” và “chị em” có một nghĩa rất rộng bao hàm nhiều cấp độ họ hàng khác nhau. Trên thực tế, tiếng “các anh em của Đức Giêsu” chỉ về những “người con” của một bà Maria đi theo Đức Kitô (xc. Mt 27, 56), bà này được xác định như là “bà Maria khác” (Mt 28, 1). Đó là những họ hàng thân thích của Đức Giêsu, theo một dụng ngữ khá thông thuộc trong Cựu ước (xc. GLCG số 500).

Như vậy Đức Maria rất thánh là người “trọn đời đồng trinh”. Đặc ân này là hậu quả của chức làm mẹ Thiên Chúa, đã hiến dâng suốt đời Người cho sứ mạng cứu chuộc của Đức Kitô.

 

BÀI 32: NỮ TỲ VÂNG PHỤC THIÊN CHÚA

Khi tự xưng là “nữ tỳ của Chúa”, Đức Maria đặt mình vào số những đầy tớ của Chúa trong Cựu ước được gọi để phục vụ Dân Chúa. Dưới ánh sáng của Tân ước, những lời đó cũng tiên báo thái độ căn bản của Chúa Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Đức Maria sẽ kết hợp với Con trong việc tuân hành ý muốn của Chúa Cha.

1.- Những lời của Đức Maria vào lúc Truyền tin: “Này đây, tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hãy xảy ra nơi tôi điều mà Ngài đã nói”(Lc 1, 38) làm nổi bật một tâm tình đặc trưng của lòng đạo đức người Do thái. Vào lúc khởi nguyên của Cựu ước, ông Môisen khi đáp lại tiếng Chúa kêu gọi, đã bày tỏ rằng mình là tôi tớ của Chúa(xc. Xh 4, 10; 14, 31). Vào lúc bắt đầu Tân ước, Đức Maria cũng đáp lại Thiên Chúa bằng một hành vi tự do suy phục và tự tình phó thác theo ý của Chúa, qua việc bày tỏ tâm tình muốn là ”nữ tỳ của Chúa ”.

Đặc trưng “tôi tớ”[1] của Chúa vốn đã là một mẫu số chung trong Cựu ước áp dụng cho những người được Chúa gọi thi hành một sứ vụ nhằm phục vụ dân ưu tuyển: ông Abraham (St 26, 24), ông Isaac (St 24, 14), ông Giacóp (Xh 32, 13; Ed 37,25), ông Giosuê(Gs 24, 29), ông Đavít (2Sm 7, 8 v.v..).

Cũng thuộc vào số “tôi tớ” các ngôn sứ và tư tế, những người được ủy thác nhiệm vụ đào tạo một dân tộc trung thành phục vụ Thiên Chúa. Sách Isaia đã đề cao nơi sự tận tụy của “người tôi tớ đau khổ” một mẫu gương trung thành với Thiên Chúa với niềm hy vọng cứu thoát dân chúng ra khỏi tội lỗi ( Is. chương 42 – 53). Những mẫu gương về sự trung thành cũng nhìn thấy nơi một vài phụ nữ, tựa như là hoàng hậu Esther, trước khi đứng ra làm trung gian để can thiệp cứu dân Do thái, bà ta đã dâng lời cầu khẩn cùng Thiên Chúa, trong đó nhiều lần bà tự xưng là “nữ tỳ của Ngài” (Et 4, 17).

2.- Đức Maria, kẻ “đầy ơn phước”, khi nhận mình là “nữ tỳ của Chúa”, đã bày tỏ quyết tâm muốn đích thân thi hành cách hoàn hảo sự phục vụ mà Thiên Chúa đang chờ đợi nơi Dân của Ngài.

Những lời: “này đây, tôi là nữ tỳ của Chúa”, tiên báo cho Đấng mà một ngày kia sẽ nói về mình rằng: “Con Người không đến để được phục vu, nhưng để phục vụ và dâng mạng sống mình cho nhiều người được cứu chuộc”(Mc 10, 45; xc. Mt 20, 28). Như thế Chúa Thánh Thần đã thực hiện một sự hòa hợp tâm trạng giữa bà Mẹ với người Con, nhằm giúp cho Đức Maria chấp nhận trọn vẹn vai trò làm mẹ bên cạnh Đức Giêsu, đồng hành với Người trong sứ mạng làm tôi tớ.

Trong suốt cuộc đời, Đức Giêsu luôn luôn duy trì ý chí phục vụ: thực vậy, là Con Thiên Chúa, lẽ ra Người có đủ lý do để được phục vụ. Khi gán cho mình danh hiệu “Con người”, được sách Đaniel phát biểu là: “tất cả mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ sẽ phục vụ Ngài” (Đn 7, 14), lẽ ra Người có quyền đòi hỏi sự thống lãnh người khác. Thế nhưng, ngược với não trạng của thời đại được biểu lộ qua việc các môn đệ khao khát được chiếm chỗ ngồi trên cùng (xc. Mc 9,34) và qua việc ông Phêrô phản đối lúc Người rửa chân cho các môn đệ (xc Ga 13,6), Đức Giêsu không muốn được phục vụ, nhưng mà ước ao được phục vụ cho đến nỗi trao hiến chính mạng sống của mình để cứu chuộc nhân loại.

3. Kể cả Đức Maria, cho dù nhận biết chức phẩm cao sang của mình, nhưng vào lúc thiên thần truyền tin, Người đã tự ý tuyên bố rằng mình là “nữ tỳ của Chúa”. Quyết tâm phục vụ này cũng bao gồm sự phục vụ tha nhân, như ta thấy qua việc gắn liền biến cố Truyền tin và Thăm viếng: được thiên thần báo tin bà Isave đang chờ đợi sinh con, Đức Maria đã “vội vã” (Lc 1,39) lên đường về Giuđêa để giúp đỡ bà chị họ của mình chuẩn bị sinh con. Đức Maria cống hiến cho các Kitô hữu thuộc mọi thời đại một khuôn mẫu cao vời của việc phục vụ.

Những lời: “Xin hãy xảy đến nơi tôi điều Ngài đã nói”(Lc 1, 38) chứng tỏ nơi Đấng đã tuyên bố là nữ tỳ của Chúa một sự hoàn toàn tuân phục ý muốn của Chúa. Thể văn ước nguyện genoito “xin hãy xảy đến” do Luca sử dụng, không những bày tỏ sự chấp nhận, nhưng còn bày tỏ sự xác tín thâu nhận kế hoạch của Thiên Chúa, coi như là của mình, huy động hết mọi năng lực bản thân.

4.- Khi thuận nhận ý muốn của Thiên Chúa, Đức Maria đã tiên báo và đồng hóa với thái độ của Đức Kitô, Đấng mà lúc vào trần gian, – theo như tác giả của thư gởi Do thái-, đã thưa rằng: “Lạy Chúa, Ngài đã không muốn hy tế và hiến lễ, nhưng đã tạo dựng cho con một thân xác… vì thế con đã nói: Này đây, con đến…để làm theo ý Ngài” (Dt 10, 5-7; Tv 39, 7-9).

Đồng thời, sự thuận lãnh của Đức Maria cũng loan báo tâm tình thuận lãnh của Đức Giêsu trong suốt sứ vụ công khai cho đến núi Calvario. Một ngày kia Đức Kitô sẽ nói: “lương thực của Tôi là làm theo ý của Đấng đã sai Tôi và hoàn tất công tác của Ngài” (Ga 4,34). Trong chiều hướng đó Đức Maria đã lấy ý định của Thiên Chúa làm nguyên tắc chỉ đạo cho tất cả cuộc sống của mình, tìm trong ý Chúa sức mạnh cần thiết để thực hiện sứ mạng đã được ủy thác.

Nếu vào lúc Truyền tin Đức Maria chưa biết hết những hy sinh sẽ kèm theo sứ vụ của Đức Kitô, nhưng lời tiên báo của ông Simêon đã hé mở phần nào số phận đau thương của con mình (Lc 2, 34-35).

Đức Trinh nữ sẽ liên kết chặt chẽ vào số phận đó qua việc thông dự trong tâm hồn. Với lòng hoàn toàn tuân phục thánh ý Chúa, Đức Maria cũng sẵn sàng sống tất cả những gì mà tình yêu Chúa đã phác họa cho mình, kể cả “lưỡi gươm” sẽ đâm thâu qua tâm hồn.



[1] “Tôi tớ” hay “đầy tớ” cùng nghĩa; khi áp dụng cho phái nữ  thì dịch là “nữ tỳ”.

Chia sẻ Bài này:

Related posts

Leave a Comment