- Legio Mariae – Đạo Binh Đức Mẹ - https://daobinh.com -

Ngàn Hoa Dâng Mẹ – Ngày 03

CHƯƠNG TRÌNH NGÀN HOA DÂNG MẸ

Thứ Bảy, ngày 03/05/2014

 

PHẦN I. SUY NIỆM MẦU NHIỆM MÂN CÔI

1. KHAI MẠC

(hát hoặc đọc: xin ơn Chúa Thánh Thần)

1. Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần

Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường.

ÐK. Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.

2. Đọc: Kinh Đức Chúa Thánh Thần

Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con; chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.

Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.

Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.

 

2. TIN MỪNG

(theo lịch phụng vụ mỗi ngày)

Tin Mừng: Ga 14,6-14

6 Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”

8 Ông Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”9 Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”?10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình.11 Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.13 Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con.14 Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.

 

3. SUY NIỆM

“Bất cứ điều gì anh em xin nhân danh Thầy thì Thầy sẽ làm”

(Ga 14,13).

Như Mẹ: Suối đời sống ở trần gian, mọi lời nói và hành động của Chúa Giêsu luôn hướng đến một mục đích duy nhất là loan báo Ơn Cứu Độ và làm vinh danh Chúa Cha. Chúng ta có sẵn sàng nói và làm để làm vinh danh Chúa trong đời sống hằng ngày không?

Với Mẹ: Lạy Chúa, con nghĩ rằng một lời nói bình an, một cử chỉ yêu thương, một thái độ tôn trọng và đón nhận, đó là những nét cơ bản mà trong một ngày sống, con có thể làm tốt nhất, đem lại niềm vui cho mọi người và làm vinh danh Chúa. Xin giúp con luôn biết trao ban bình an mà con đã lãnh nhận từ Chúa. Xin cho con luôn trung thành với bổn phận hằng ngày.

Nhờ Mẹ: Xin Mẹ dạy con tôn vinh danh Chúa trong đời sống thường ngày của con.

 

4. LẦN HẠT MÂN CÔI

(tuỳ điều kiện: lần hạt 1 chục, 2 chục… 5 chục Kinh Mân Côi)

 

5. KẾT THÚC

(hát hoặc đọc)

1. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa

ĐK. Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í, a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tớ. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.

1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.

2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.

3. Lũ giàu sang đuổi về tay không, những người thanh bần ban đầy hồng phúc. Người đã nhớ lời hứa mà độ trì Ít-ra-en cùng tổ phụ Áp-ra-ham với miêu duệ.

2. Đọc: Thánh ca Tin Mừng
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat)

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn !

Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.

Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
Và cho con cháu đến muôn đời.

Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
tự muôn đời và chính hiện nay
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.

 

PHẦN II:  TÌM HIỂU VỀ ĐỨC MARIA

BÀI 5: ĐỨC MARIA TRONG CẢM NGHIỆM THIÊNG LIÊNG CỦA HỘI THÁNH

Trong bài trước, Đức Thánh Cha trình bày sự tiến triển của đạo lý về Đức Maria trải qua thời đại. Sự tiến triển này không phải chỉ là kết quả của những suy tư thần học, nhưng còn được thúc đẩy bởi lòng đạo đức của các tín hữu. Trong bài hôm nay, Đức Thánh Cha điểm qua vài hình thức tôn kính Mẹ Maria được phát triển qua các thời đại: kinh nguyện, nghệ thuật, linh đạo, thánh điện.

1.- Qua những bài huấn giáo vừa rồi, chúng ta đã theo dõi sự tiến triển của những suy tư của cộng đoàn Kitô hữu từ buổi đầu về khuôn mặt và vai trò của Đức Trinh nữ trong lịch sử cứu độ. Lần này chúng ta sẽ suy nghĩ về cảm nghiệm Hội thánh về Đức Maria.

Sự tiến triển về suy tư thần học về Đức Maria và về lòng tôn kính Đức Trinh nữ dọc theo các thế kỷ đã làm thêm rõ nét khuôn mặt Maria của Hội thánh. Dĩ nhiên Đức Trinh nữ hoàn toàn quy hướng về Đức Kitô, nền tảng của đức tin và của cảm nghiệm Hội thánh, và dẫn về Đức Kitô. Tuy vậy, vì vâng lệnh Đức Giêsu, Đấng đã dành cho Thân mẫu của mình một vai trò rất đặc biệt trong nhiệm cục cứu độ, các Kitô hữu cũng đã tôn kính, yêu mến và cầu khẩn Đức Maria hết sức đặc biệt và chân tình. Họ đã dành cho Người một vị trí nổi bật trong đức tin và trong lòng đạo, nhận ra nơi Người một con đường ưu tuyển dẫn tới Đức Kitô, Đấng trung gian tuyệt đỉnh.

Do đó chiều kích Maria của Hội thánh đã tạo thành một yếu tố không thể chối được của cảm nghiệm dân Kitô hữu. Chiều kích này được bộc lộ qua nhiều hình thức phát biểu của đời sống các tín hữu, chứng tỏ vị trí mà Đức Maria đã chiếm được trong tâm hồn của họ. Đây không phải là một thứ tình cảm hời hợt, nhưng là một mối dây thân tình sâu đậm và có ý thức, đâm rễ sâu trong đức tin, và thúc đẩy các Kitô hữu hôm qua cũng như hôm nay năng chạy đến cùng Đức Maria, ngõ hầu kết hiệp chặt chẽ hơn với Chúa Kitô.

2.- Từ sau kinh nguyện cổ điển nhất được xuất phát bên Ai cập bởi các cộng đoàn Kitô hữu vào thế kỷ thứ III để khẩn nài “Đức Mẹ Chúa Trời” che chở trong cơn gian nan[1], rất nhiều lời kinh khẩn nài đã được các Kitô hữu dâng lên Đấng mà họ tin là rất quyền thế để chuyển cầu với Chúa.

Ngày nay, kinh nguyện phổ thông hơn cả là kinh Kính mừng Maria, với phần thứ nhất gồm bởi những lời trích từ Phúc âm(xc. Lc 1, 28.42). Các Kitô hữu đã được dạy để đọc kinh này ở trong nhà, ngay từ thuở ấu thơ, và ra như đón nhận một món quà quí báu cần phải gìn giữ suốt đời. Kinh Kính mừng được lặp đi lặp lại nhiều lần trong kinh Mân côi, giúp cho nhiều tín hữu đi vào việc cầu nguyện chiêm niệm các mầu nhiệm Phúc âm, và hàn huyên thân mật với Thân mẫu Đức Giêsu. Ngay từ thời Trung cổ, kinh Kính mừng là kinh nguyện phổ thông nhất của hết mọi tín hữu kêu xin Đức Thánh Mẫu đồng hành và chở che họ trong cuôc sống hàng ngày (xc. tông huấn Marialis cultus, số 42-55).

Ngoài ra, các Kitô hữu còn bày tỏ lòng mộ mến Đức Maria bằng cách gia tăng những hình thức tôn kính khác: các thánh thi, các kinh nguyện, các bài thơ, dù chất phác hay tài nghệ, đều chứa đựng mối tình đối với Người mà Chúa Giêsu trên Thập giá đã ban cho nhân loại làm mẹ. Trong số đó, một vài kinh chẳng hạn như là thánh thi “Akatistos” và kinh “Lạy Nữ Vương” đã ghi dấu sâu đậm trên đời sống Đức tin của các tín hữu[2].

Lòng tôn sùng Đức Maria còn được trau dồi bởi những tác phẩm nghệ thuật bên Đông phương cũng như Tây phương, đưa biết bao thế hệ đến trầm trồ vẻ đẹp tinh thần của Đức Maria. Các họa sĩ, điêu khắc gia, nhạc sĩ và thi sĩ đã để lại nhiều kiệt tác làm nổi bật lên những khía cạnh khác nhau của vẻ cao trọng của Đức Trinh nữ, và giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa và giá trị của sự đóng góp của Người vào công trình cứu chuộc.

Nghệ thuật Kitô giáo đã nhìn thấy nơi Đức Maria sự thể hiện một nhân loại mới, đáp ứng với dự án của Thiên Chúa, do đó trở thành một dấu chỉ cao vời của niềm hy vọng cho toàn thể nhân loại.

3.- Những Kitô hữu đã nhận được một ơn gọi tận hiến đặc biệt thì lại càng hiểu rõ sứ điệp đó hơn nữa. Thực vậy, trong các dòng tu, trong các hiệp hội tận hiến, Đức Maria đã được tôn kính một cách đặc biệt. Rất nhiều dòng tu, nhất là các dòng nữ – tuy không phải chỉ có những dòng nữ -, đã lấy một tước hiệu của Đức Maria làm danh xưng. Dù sao, bên trên những hình thức bề ngoài, linh đạo của nhiều dòng tu cũng như của nhiều phong trào – một số không nhỏ mang tính cách Maria -, đã nêu bật mối dây liên hệ đặc biệt đối với Đức Maria, nhằm bảo đảm cho đặc sủng được sống trung thực và toàn vẹn.

Sự quy hướng về Đức Maria trong cuộc đời của những kẻ được Chúa Thánh Thần ưu tuyển cũng đã phát triển chiều kích huyền nhiệm, cho thấy rằng người Kitô hữu có thể cảm nghiệm được một cách sâu đậm sự can thiệp của Đức Maria.

Sự quy hướng về Đức Maria đã liên kết không những là những Kitô hữu đã dấn thân phục vụ Chúa, mà cả những tín hữu với lòng tin chất phác và thậm chí những người “xa đạo”; đối với những người này đôi khi lòng tôn kính Đức Maria là mối dây duy nhất còn ràng buộc họ với Hội thánh. Một dấu chỉ biểu lộ tâm tình chung của các tín hữu đối với Đức Maria là những cuộc hành hương về các thánh điện kính Đức Maria, thu hút rất nhiều đoàn tín hữu lũ lượt quanh năm. Một vài đền thánh kính Đức Mẹ rất lừng danh, tựa như Lourdes, Fatima, Lorêtô, Pompêi, Guađalupê, Czestochowa. Còn biết bao nhiêu thánh điện khác chỉ được biết trong một quốc gia hay một địa phương. Trong tất cả các thánh điện ấy, việc kính nhớ Đức Maria thường được gắn liền với một vài biến cố mà Mẹ đã cứu giúp trong quá khứ, bày tỏ tình âu yếm của Mẹ và mở rộng tâm hồn đón nhận ơn thánh Chúa.

Những địa điểm cầu khấn Đức Maria là những bằng chứng của tình Chúa lân tuất đã đến với con người nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria. Những phép lạ chữa bệnh, ăn năn hối cải, là những dấu chỉ tỏ tường của việc Đức Maria tiếp tục, cùng với Đức Kitô và trong Chúa Thánh Thần, công tác của một bà mẹ nâng đỡ dìu dắt.

4.- Các đền Thánh mẫu thường trở thành những trung tâm truyền giảng Tin mừng: thực vậy, ngay trong Hội thánh thời nay cũng như trong cộng đoàn đón chờ lễ Ngũ tuần, lời cầu kinh cùng với Đức Maria đã thúc đẩy nhiều Kitô hữu đi hoạt động tông đồ và phục vụ anh chị em. Ở đây tôi muốn đặc biệt nhắc tới ảnh hưởng của lòng tôn kính Đức Maria đối với việc thực hành bác ái và những công cuộc từ thiện. Được khuyến khích do sự hiện diện của Đức Maria, các tín hữu thường cảm thấy nhu cầu muốn dấn thân phục vụ những người nghèo, những người bất hạnh, những người bệnh tật, hầu có thể trở nên đối với những người bần đinh đó dấu hiệu của sự che chở hiền mẫu của Đức Trinh nữ, một bức hình sống động của lòng Cha lân tuất.

Qua những điều vừa nói trên đây, chúng ta thấy chiều kích Maria đã thông qua tất cả mọi sinh hoạt của Hội thánh. Khi quy hướng về Mẹ Maria, thì việc loan truyền Lời Chúa, Phụng vụ, những hình thức biểu lộ đức ái và lòng đạo đức đều tìm thấy cơ hội để được bồi dưỡng và canh tân.

Dân Thiên Chúa, dưới sự hướng dẫn của các vị Chủ chăn, được mời gọi hãy biết phân định qua sự kiện này tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đã thúc đẩy lòng tin Kitô giáo trên con đường khám phá ra dung nhan của Đức Maria. Chính Chúa Thánh Thần đã thực hiện những điều kỳ diệu tại những nơi tôn kính Đức Maria. Chính Chúa Thánh Thần khi thúc đẩy Dân Chúa tìm hiểu và yêu mến Đức Maria, thì đang hướng dẫn các tín hữu tìm đến trường của Đức Trinh nữ của kinh Magnificat, ngõ hầu biết tìm đọc những dấu chỉ của Thiên Chúa ở trong lịch sử, và thủ đắc được đức khôn ngoan giúp mỗi người trở thành kẻ kiến tạo một nhân loại mới.

 

BÀI 6: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỨC MARIA TỚI ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH

Đối với Hội thánh, Đức Maria là kẻ chuyển cầu cho các tín hữu, và đồng thời cũng là mẫu gương của các nhân đức: tin và giữ Lời Chúa, hy vọng, thinh lặng, khiêm tốn và kín đáo, thanh tịnh và dịu hiền, đồng cảm, giao hòa, vui tươi. Đề tài về mẫu gương các nhân đức sẽ còn được tiếp tục ở các bài 61.

1.- Sau khi đã suy nghĩ về chiều kích Maria của đời sống Hội thánh, bây giờ chúng ta hãy nêu bật kho tàng thiêng liêng dồi dào mà Đức Maria đã thông chuyển cho Hội thánh bằng mẫu gương và sự chuyển cầu của mình.

Trước hết, chúng tôi muốn dừng lại để nghiên cứu vắn tắt một vài khía cạnh có ý nghĩa của bản thân Đức Maria, cống hiến cho mỗi tín hữu những hướng dẫn quí giá để đón nhận và thực hiện ơn gọi của mình.

Đức Maria đã đi trước chúng ta trên con đường đức tin: khi tin vào sứ điệp của thiên sứ, Người đã đón tiếp mầu nhiệm Nhập thể trước hết mọi người và một cách hoàn hảo hơn bất cứ ai khác (xc. Thông điệp Thân mẫu Đấng Cứu thế, số 13). Cuộc hành trình đức tin của Người đã bắt đầu trước khi khởi sự chức vụ làm mẹ Thiên Chúa và còn được phát triển trong suốt cuộc đời dương thế. Đức tin của Người mang tính cách táo bạo: vào lúc truyền tin, Người đã tin vào một điều không thể thực hiện nổi theo sức loài người, và ở Cana đức tin của Người đã thúc đẩy Đức Giêsu thực hiện phép lạ đầu tiên bày tỏ quyền năng thiên sai (xc. Ga 2, 1-5).

Đức Maria giáo dục các Kitô hữu hãy sống đức tin như là một con đường dấn thân, và liên lỉ đòi hỏi tính táo bạo và kiên trì ở hết mọi lứa tuổi và mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

2.- Gắn liền với đức tin là sự ngoan ngoãn làm theo ý Chúa. Khi tin vào Lời của Chúa, Người đã có thể đón tiếp Lời Chúa vào trong cuộc sống của mình; và khi bày tỏ sẵn sàng tuân theo kế hoạch cao cả của Chúa, Người đã chấp nhận tất cả những gì mà Thiên Chúa đòi hỏi ở nơi mình.

Sự hiện diện của Đức Trinh nữ trong Hội thánh khuyến khích tất cả các Kitô hữu hãy biết dành ra mỗi ngày lắng nghe Lời của Chúa, ngõ hầu hiểu ra kế hoạch tình thương của Chúa, trong hết mọi cảnh huống của cuộc đời, bằng cách cộng tác trung thành vào việc thực hiện kế hoạch đó.

3.- Nhờ vậy Đức Maria dạy dỗ cộng đoàn các tín hữu hãy nhìn về tương lai với lòng phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Trong kinh nghiệm bản thân của Đức Trinh nữ, đức trông cậy đã được tăng cường nhờ những động lực luôn luôn đổi mới. Ngay từ lúc Truyền tin, Đức Maria đã tập trung nơi Con Thiên Chúa Nhập thể trong lòng dạ trinh khiết của mình tất cả mọi nỗi chờ mong của dân Israel. Niềm trông đợi của Mẹ đã được kiện toàn trải qua những giai đoạn kế tiếp trong cuộc đời ẩn dật tại Nazarét và thời hoạt động công khai của Đức Giêsu. Niềm tin lớn lao vào lời của Đức Kitô, Đấng đã tiên báo cuộc sống lại vào ngày thứ ba, đã khiến cho Người không bị lung lay kể cả khi phải đối đầu với bi kịch Thập giá: Người đã duy trì niềm hy vọng vào việc thành tựu chương trình cứu chuộc; Người đã trông đợi không chút ngần ngừ, – sau những cơn tối tăm của thứ sáu tuần thánh -, hừng đông của ngày sống lại.

Trong con đường cam go trải qua dòng lịch sử, giữa ơn cứu độ “đã lãnh nhận” và “chưa hoàn tựu”, cộng đoàn các tín hữu biết rằng mình có thể tin tưởng nơi sự trợ giúp của “Mẹ nguồn cậy trông”, Đấng đã cảm nghiệm được sự chiến thắng của Đức Kitô trên các quyền lực sự chết, và thông đạt cho họ một khả năng luôn mới mẻ để biết chờ đợi tương lai của Thiên Chúa và tín thác nơi những lời Chúa hứa.

4.- Tấm gương của Đức Maria giúp cho Giáo hội biết quý trọng giá trị của thinh lặng. Sự thinh lặng của Đức Maria không phải chỉ là nói năng ít lời, nhưng nhất là khả năng khôn ngoan biết nhớ lại và thâu thập – trong một cái nhìn đức tin – tất cả mầu nhiệm của Ngôi Lời Nhập thể và những diễn biến của cuộc đời của Chúa.

Đây chính là sự thinh lặng đón nhận Lời Chúa, khả năng chiêm ngắm mầu nhiệm của Đức Kitô, mà Đức Maria đã truyền lại cho dân các tín hữu. Trong một thế giới huyên náo và đủ thứ tin tức, chứng tá của Người giúp cho chúng ta quý trọng một sự thinh lặng phong phú về tinh thần và cổ võ tinh thần chiêm niệm.

Đức Maria làm chứng cho giá trị của một cuộc sống khiêm tốn, ẩn dật. Thường tất cả mọi người đòi hỏi và đôi khi còn yêu sách phải đánh giá cao bản ngã và những tài năng của mình. Ai ai cũng đều thích trọng vọng và danh giá. Phúc âm nhiều lần nói rằng các Tông đồ cũng mong mỏi được chiếm những chỗ cao trong Nước Chúa, họ tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất, và Chúa Giêsu đã phải dạy cho họ biết sự cần thiết của đức khiêm nhường và sự phục vụ (xc. Mt 18, 1-5; 20, 20-28; Mc 9,30-37; 10, 35-45; Lc 9,46-48; 22,24-27). Ngược lại, Đức Maria không hề ước ao danh dự hay những đặc ân lợi lộc; Người luôn luôn đi tìm cách chu toàn ý Chúa và sống một đời tuân theo kế hoạch của Cha.

Với những ai thường cảm thấy gánh nặng của một cuộc sống xem ra vô nghĩa, Đức Maria cho họ thấy rằng cuộc đời thật là quý giá nếu biết sống cho tình yêu Đức Kitô và tình yêu anh em mình.

5.- Ngoài ra, Đức Maria còn làm chứng tá cho giá trị của một cuộc đời thanh tịnh và đầy ưu ái đối với hết mọi người. Vẻ đẹp của linh hồn Người, được trao hiến tất cả cho Thiên Chúa, đã thành đối tượng ngưỡng mộ cho tất cả các Kitô hữu. Nơi Đức Maria, cộng đoàn Kitô hữu luôn luôn thấy lý tưởng của một phụ nữ, đầy tình thương âu yếm, bởi vì đã sống thanh sạch trong tâm hồn và thân xác.

Trong một nền văn hóa thời đại thường coi rẻ đức khiết tịnh và hạ giá giới tính, tách rời nó ra khỏi nhân phẩm và kế hoạch của Thiên Chúa, Đức Trinh nữ Maria đã trưng bày cho chúng ta thấy chứng tá của một sự thanh tịnh soi sáng lương tâm và dẫn tới một tình yêu cao cả hơn đối với các tạo vật và đối với Thiên Chúa.

6.- Hơn thế nữa, đối với các Kitô hữu của mọi thời, Đức Maria tỏ ra như là một người đồng cảm với những nỗi khổ đau của nhân loại. Sự thông cảm đó không phải chỉ diễn ra nơi sự chia sẻ cảm thông mà còn biểu lộ qua sự giúp đỡ hữu hiệu và cụ thể đứng trước những khổ đau vật chất và tinh thần của nhân loại.

Noi theo Đức Maria, Hội thánh được kêu gọi hãy đảm nhận một thái độ tương tự đối với những người nghèo khổ trên mặt đất. Lòng ân cần của Thân mẫu Đức Kitô đối với những giọt nước mắt, những nỗi khổ và những khó khăn của con người thuộc mọi thời đại, cần thúc đẩy các Kitô hữu, cách riêng vào lúc bước sang ngàn năm thứ ba, hãy tăng gia những dấu chỉ cụ thể hữu hiệu của một tình yêu giúp cho những người bé nhỏ và đau khổ ngày hôm nay có thể tham gia vào những lời hứa và những niềm hy vọng của một thế giới mới, được sinh ra bởi mầu nhiệm Phục sinh.

7.- Tâm tình thảo hiếu sùng mộ của con người đối với Thân mẫu Chúa Kitô đã vượt lên trên những biên cương hữu hình của Giáo hội và thúc đẩy các tâm hồn tiến tới sự hòa giải. Giống như một người mẹ, Đức Maria muốn cho tất cả con cái mình đoàn kết với nhau. Sự hiện diện của Người trong Hội thánh tạo nên một lời mời gọi hãy duy trì sự hòa hợp các tâm hồn giống như vào hồi khai nguyên của Hội thánh (x. Cv.1,14), và do đó, hãy đi tìm những con đường dẫn tới sự hợp nhất và hòa bình giữa hết mọi người thiện tâm.

Khi chuyển cầu với Con của mình, Đức Maria nài xin ơn hiệp nhất của toàn thể nhân loại, nhằm tới sự kiến tạo một nền văn minh tình thương, vượt lên trên những khuynh hướng chia rẽ, những cơn cám dỗ hận thù, oán ghét và sự quyến rũ sử dụng bạo lực.

8.- Nụ cười hiền mẫu của Đức Trinh nữ Maria, được rất nhiều họa phẩm ghi lại, đã bày tỏ sự tràn trề duyên dáng và an bình muốn được thông đạt. Việc biểu lộ tâm hồn bình an góp phần hữu hiệu vào việc giới thiệu một khuôn mặt vui tươi của Hội thánh.

Nhận lời của thiên sứ lúc Truyền tin “hãy vui lên” (khaire: xc Lc 1,28), Đức Maria là người đầu tiên được thông dự vào niềm vui của thời Cứu tinh, – đã được các ngôn sứ báo trước cho “Thiếu nữ Sion” (xc.Is 12,6; Xp 3,14-15; Zac 9.8), và Người truyền thụ lại cho nhân loại qua hết mọi thời đại.

Khi kêu cầu Đức Maria như là “nguyên nhân niềm vui của chúng con”[3], các Kitô hữu khám phá ra nơi Mẹ như kẻ có khả năng thông đạt niềm vui phát sinh từ niềm hy vọng, cho dù ở giữa những thử thách cuộc đời, và kẻ dẫn đưa những ai tín thác vào Mẹ đến niềm vui bất tận.



[1]  Tức là kinh “Sub tuum praesidium” (Chúng con trông cậy), đã nhắc tới ở  bài 2 ( đoạn 5).

[2]  Đề tài này sẽ được khai triển ở bài 68.

[3] Causa nostrae laetitiae, trong Kinh cầu Đức Bà, quen đọc trong bản dịch tiếng Việt là: “ Đức Bà làm cho chúng con vui mừng”

Chia sẻ Bài này:
[1] [2] [3]