Nội San Kinh Mân Côi Số Tháng 01-2015

TRANG CHUYÊN ĐỀ

 

SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC MARIA

VÀO LÚC KHỞI NGUYÊN CỦA HỘI THÁNH

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II

Việc gắn liền Đức Maria với mầu nhiệm Hội Thánh không những phù hợp với hướng đi của công đồng Vaticanô II, nhưng có nền tảng từ Tân Ước. Sách Tông đồ Công vụ đã ghi nhận sự hiện diện của Mẹ Maria vào buổi khai nguyên của Hội Thánh, tại nhà Tiệc ly ở Giêrusalem, trong những ngày cầu nguyện khẩn cầu Chúa Thánh Thần. Đức Maria hiện diện như một nhân vật hướng dẫn Hội Thánh trong sự đồng tâm cầu nguyện và trung thành ghi nhớ Chúa Kitô.

1. Sau khi đã dừng lại trong những bài huấn giáo trước đây để đào sâu về bản chất và sứ mạng của Hội Thánh, giờ đây tôi thấy cần phải hướng mắt nhìn lên thánh Trinh nữ Maria, Đấng đã thể hiện sự thánh thiện của Hội Thánh một cách toàn hảo, và trở thành khuôn mẫu cho sự thánh thiện đó.

Đó cũng là điều mà các Nghị phụ công đồng Vaticanô II đã làm: sau khi đã trình bày đạo lý về thực thể lịch sử cứu độ của Dân Thiên Chúa, các Nghị phụ đã muốn hoàn tất đạo lý đó với việc trình bày vai trò của Đức Maria trong công cuộc cứu độ. Thực vậy, chương VIII của Hiến chế Ánh sáng muôn dân không những chỉ nhằm nêu bật chiều kích Hội Thánh của đạo lý về Đức Maria, mà còn muốn làm sáng tỏ sự đóng góp mà hình ảnh của Đức Maria mang lại cho chúng ta trong việc hiểu biết thêm về mầu nhiệm của Hội Thánh.

2. Trước khi trình bày hành trình của Công đồng để tìm hiểu Đức Maria tôi ước muốn nhìn ngắm Đức Maria vào lúc khởi nguyên của Hội Thánh, đã được sách Tông đồ Công vụ kể lại. Thánh Luca mở đầu tác phẩm Tân Ước trình bày cuộc sống của cộng đoàn đầu tiên của các Kitô hữu, sau khi nhắc tới danh tánh của từng vị Tông đồ (1,13), đã nói rằng: “Tất cả mọi người đều chuyên chăm đồng tâm cầu nguyện cùng với một vài phụ nữ và với Đức Maria, Thân mẫu của Đức Giêsu, và với các anh em của Chúa” (1,14).

Trong quang cảnh đó, chúng ta thấy nổi bật lên Đức Maria, nhân vật duy nhất được nhắc tới đích danh – ngoài các thánh Tông đồ ra: Đức Maria đã tượng trưng cho một khuôn mặt của Hội Thánh vừa khác biệt vừa bổ túc cho khuôn mặt tác vụ và phẩm trật của Hội Thánh.

3. Thực vậy, câu nói của thánh Luca đã kể lại sự hiện diện, trong nhà Tiệc ly, của một vài phụ nữ, và như vậy ông đã muốn nêu bật tầm quan trọng của các phụ nữ trong đời sống Hội Thánh ngay từ lúc ban đầu. Sự hiện diện này đã được nối kết chặt chẽ với sự bền bỉ kiên trì của cộng đoàn trong sự cầu nguyện và đồng tâm nhất trí. Những nét này đã diễn tả một cách toàn hảo hai khía cạnh căn bản của sự đóng góp đặc thù mà các phụ nữ mang lại cho đời sống của Hội Thánh. Nam giới thường nghiêng về những khuynh hướng hoạt động ở bên ngoài; vì thế họ cần các phụ nữ giúp đỡ để biết chú ý hơn đến những tương quan liên-bản-vị và tiến triển đến sự kết hợp của các tâm hồn.

Đức Maria, “kẻ được chúc phúc hơn mọi người nữ” (Lc 1,42), đã chu toàn một cách nổi bật sứ mạng đó của phụ nữ. Thử hỏi xem có ai, hơn Đức Maria, đã cổ võ giữa hết mọi tín hữu sự kiên trì trong việc cầu nguyện? Có ai, hơn Mẹ, đã cổ động sự hòa hợp và tình yêu thương?

Vì đã nhận chân sứ mạng mục vụ được Chúa Giêsu đã ủy thác cho Mười một Tông đồ, các phụ nữ trong nhà Tiệc ly, cùng với Đức Maria ở giữa họ, đã kết hiệp với lời cầu nguyện của các Tông đồ, và đồng thời minh chứng cho sự hiện diện trong Hội Thánh của những người tuy không lãnh nhận sứ mạng Tông đồ nhưng cũng là những phần tử trọn vẹn của cộng đoàn đã được kết hiệp trong đức tin vào Đức Kitô.

4. Sự hiện diện của Đức Maria trong cộng đoàn cầu nguyện đón chờ Chúa Thánh Thần xuống (x. Cv 1,14) đã gợi lên phần đóng góp của Đức Maria trong cuộc Nhập thể của Con Thiên Chúa do quyền năng của Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,35). Cả hai vai trò của Đức Trinh nữ Maria, lúc khai mào trước đây và lúc Hội Thánh xuất hiện bây giờ vào lễ Hiện xuống, đều có liên lạc mật thiết với nhau.

Sự hiện diện của Đức Maria vào thời buổi sơ sinh của Hội Thánh mang sắc thái nổi bật khi đối chiếu với sự thông dự kín đáo của Người trong giai đoạn trước đây, nghĩa là vào thời gian hoạt động công khai của Đức Giêsu. Vào lúc Con của Người thi hành sứ vụ thì Đức Maria ở lại Nadarét, tuy dù sự cách ly đã không loại bỏ vài cuộc tiếp xúc đầy ý nghĩa như là tại Cana, và nhất là đã không ngăn cản Người tham dự vào hy tế trên núi Calvariô.

Ngược lại, trong cộng đoàn tiên khởi, Đức Maria giữ một vai trò đáng kể. Sau khi Chúa Giêsu lên trời và đang lúc chờ đợi lễ Ngũ tuần, Thân mẫu của Đức Giêsu đã đích thân hiện diện tại những bước đầu của công trình mà người Con của Mẹ đã khai trương.

5. Sách Tông đồ Công vụ đã nhấn mạnh rằng Mẹ Maria có mặt trong nhà Tiệc ly cùng với “các anh em của Đức Giêsu” (Cv 1,14), nghĩa là cùng với các họ hàng thân thích của Chúa, như là truyền thống Hội Thánh vẫn hiểu: đây không phải là một cuộc tụ họp gia đình cho bằng, dưới sự hướng dẫn của Mẹ Maria, gia đình tự nhiên của Đức Giêsu đã trở thành gia đình tinh thần của Đức Kitô: “ai tuân hành ý của Thiên Chúa – như Đức Giêsu đã nói – thì người đó là anh, chị em và là mẹ của tôi” (Mc 3,34).

Cũng trong một hoàn cảnh đó, thánh Luca đã đặt danh hiệu cho Đức Maria là: “Thân mẫu của Đức Giêsu” (Cv 1,14), ra như muốn gợi ý rằng có cái gì của Đức Kitô lên trời vẫn còn tồn tại qua sự hiện diện của bà Thân mẫu. Đức Maria nhắc nhở cho các môn đệ khuôn mặt của Đức Giêsu, và với sự hiện diện ở giữa cộng đoàn, Mẹ trở thành dấu hiệu cho lòng chung thủy của Hội Thánh đối với Chúa Kitô.

Trong bối cảnh này, danh hiệu “Thân mẫu” nói lên thái độ gần gũi và ân cần mà Đức Maria sẽ tiếp tục theo dõi đời sống của Hội Thánh. Đức Maria sẽ mở cửa lòng mình cho Hội Thánh để bày tỏ những kỳ công mà Thiên Chúa toàn năng và lân tuất đã thực hiện ở nơi Người.

Ngay từ buổi đầu, Đức Maria đã thi hành chức vụ làm “Thân mẫu của Hội Thánh”: hoạt động của Mẹ đã giúp cho các Tông đồ duy trì sự đoàn kết, được thánh Luca trình bày như là “đồng tâm hiệp ý”, khác xa với sự cãi cọ mà trước đây đã xảy ra giữa họ với nhau.

Sau cùng, Đức Maria đã thực thi sứ mạng làm mẹ đối với cộng đoàn các tín hữu, không những cầu xin cho Hội Thánh được các hồng ân của Chúa Thánh Thần, cần thiết cho sự hình thành và cho tương lai của Hội Thánh, mà đồng thời còn dạy dỗ các môn đệ của Đức Kitô được biết liên lỉ kết hiệp với Thiên Chúa.

Như vậy, Đức Maria trở thành người giáo dục dân Chúa về sự cầu nguyện, về sự gặp gỡ Thiên Chúa, một yếu tố quan thiết ngõ hầu hoạt động của các mục tử và của các tín hữu luôn luôn bắt đầu và tìm thấy động lực sâu xa ở trong Thiên Chúa.

6. Những nhận xét vắn tắt trên đây cho thấy rõ là mối tương quan giữa Đức Maria và Hội Thánh dẫn đưa tới việc đối chiếu lý thú giữa hai bà mẹ với nhau. Mối tương quan ấy làm sáng tỏ chức phận làm mẹ của Đức Maria, và thúc đẩy Hội Thánh cũng luôn luôn đi tìm hiểu chân tướng của mình qua việc ngắm dung nhan của Đức Mẹ Chúa Trời.

Trích từ cuốn sách “Những bài giáo huấn về Đức Maria” được ĐGH Gioan Phaolô II trình bày trong các buổi triều yết chung Thứ Tư hàng tuần từ ngày 07.09.1995 đến ngày 13.11.1997).

Người dịch:  Lm Giuse Phan Tấn Thành, OP.

 
CƯU MANG VÀ SINH HẠ MỘT THẾ GIỚI MỚI

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Các mục đồng vào hang đá và nhận thấy một Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một con người mới.

Đức Mẹ sinh ra một thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra. Thế giới cũ của bà Evà là môt thế giới đổ vỡ. Từ chỗ bất tuân lệnh Thiên Chúa, thế giới đã đi đến chỗ bất hoà với nhau: ông Adong đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không những bất hoà với nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ chỗ bất hoà đi đến bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con người phân tán, chia rẽ. Thế giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu ngạo và thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình.

Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá. Đức Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi thưa “Xin vâng” với thiên thần. Thánh Giuse vâng phục Thiên Chúa nên trở về nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng vâng theo lời thiên thần đến hang Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh sáng ngôi sao đến thờ lạy Chúa.

Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải chỉ có giữa Chúa Giêsu với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa thiên nhiên, trong hơi ấm của bầy chiên bò, với đoàn mục đồng và Ba Vua quây quần chung quanh nói lên một thế giới chung sống hoà bình. Chúa sống hoà hợp với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con người sống hoà hợp với Chúa và với nhau.

Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa vị mình là Thiên Chúa để xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng thánh thiện để đến với người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha, nên quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, các con cái của mình. Và nhất là Chúa đã quên mình là vô tội đến nỗi sẵn lòng hiến thân chịu chết cho loài người tội lỗi. Thánh Giuse và Đức Mẹ quên mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Mục đồng quên mình, giữa đêm khuya lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình bỏ nhà cửa tiện nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên mình, quan tâm lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế giới mới chan chứa tình yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính là cảnh thái bình đáng mong ước.

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay Đức Mẹ để thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong ước con người hãy biết sống hài hoà với nhau trong vâng phục Thiên Chúa, trong quên mình vì người khác để có một nền hoà bình thực sự trường cửu. Vì hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh nhưng còn là con người sống hài hoà trong tình tương thân tương ái.

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và góp phần sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ chắc chắn phải đớn đau. Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ, Thánh Giuse, Ba Vua, các mục đồng và cả súc vật trong hang đá Bêlem biết vâng phục Thiên Chúa, biết sống hài hoà và quên mình thì mới mong kiến tạo được một nền hoà bình viên mãn.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở nên con người mới, góp phần cưu mang và sinh hạ một thế giới mới như lòng Chúa mong ước. Amen.

Kiểm điểm đời sống    

1. Bạn có mơ ước một thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu từ đâu trước? Từ chính bạn hay từ người khác?

2. Thế giới của Đức Mẹ có gì khác thế giới của bà Evà?

3. Đầu năm mới này, bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung quanh bạn?

(nguồn: kinhmungmaria.com)

Tâm tình con thảo VỚI MẸ MARIA

Trong cuốn sách tựa đề “Đồng Hành” có thuật lại câu chuyện về cuộc đời của một nhà thừa sai Canada, Giám mục Emile Crôa, Ngài thú nhận:

Ngay từ thuở nhỏ, tôi là một đứa trẻ nghịch ngợm, phá phách và cứng đầu, lười biếng. Có một lần thầy giáo đã phải giận dữ thốt lên rằng: “Chưa bao giờ tao thấy một học sinh nào quá quắt như mày”. Ngày nọ, thay vì đến trường, tôi lại trốn học ra đồng. Cha tôi biết được, ông giận dữ và thay vì đưa tôi về nhà, ông lại dẫn tôi vào một nhà nguyện. Ông xô tôi đến trước bàn thờ Đức Mẹ đang mỉm cười và quát: “Thằng khốn nạn, qùy xuống”. Và rồi ông ngước nhìn lên tượng Đức Mẹ và nói: “Xin Mẹ nhận lại thằng nhỏ này, vì quả thực con không còn biết phải làm gì với nó nữa. Xin Mẹ lo lắng cho nó để một ngày kia, nó khỏi trở thành một tướng cướp, bị treo cổ trên dây”.

Nhưng lời nói của cha tôi như một làn roi quất mạnh vào tôi. Tôi cảm thấy đau hơn tất cả các trận đòn từng bị đánh trước đây. Và nhìn lên Đức Mẹ đang mỉm cười tôi tự nhủ: “Nếu cha tôi đã phó thác tôi cho Đức Mẹ thì tôi phải minh chứng được Đức Mẹ đã làm điều gì đó tốt đẹp cho tôi’.

Với sự trợ giúp của Đức Mẹ, Emile đã thay đổi, đi tu, thụ phong Linh mục, Giám mục và truyền giáo ở vùng thổ dân ngoại giáo ở Canada.

Kể lại câu chuyện này, đức cha không chỉ muốn dạy cho chúng ta cách thức hay nhất để chúng ta có thể dạy dỗ, uốn nắn sửa sai con cái, nhất là những đứa ngỗ nghịch, khó dạy hay bướng bỉnh quậy phá như Emile. Điều mà Chúa muốn xác tín với chúng ta cũng như với tất cả các gia đình Công giáo: “Mẹ Maria rất gần gũi, gắn bó và quan tâm đến những nhu cầu, khó khăn và cay cực của các gia đình”.

Đức Maria là “Mẹ Giáo Hội” phản chiếu niềm xác tín sâu xa của cộng đoàn Dân Chúa, họ nhìn thấy nơi Đức Maria không những là người Mẹ của con người Chúa Kitô, mà còn của người tín hữu. Người được nhìn nhận là Mẹ sự cứu thế, Mẹ sự sống và Mẹ ân sủng, Mẹ những người được cứu chuộc và Mẹ kẻ sống… và là Mẹ đích thực của mỗi người chúng ta.

(Lược trích từ P.K.M,CMC, Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Giáo Hội; nguồn: tinmung.net)

Chia sẻ Bài này:

Related posts

Leave a Comment