Herman Wijns, Vị Linh Mục Tí Hon

Khi được hỏi sẽ làm gì sau này, Herman Wijns, cậu bé 6 tuổi, trả lời không do dự: 

– “Con sẽ làm linh mục, chứ không làm bất cứ gì khác. Con sẽ làm chú giúp lễ, rồi sau đó làm linh mục”.

“Làm linh mục”: ước mơ duy nhất của bé Herman Wijns, người Bỉ flamand. Herman sinh ngày 15-3-1931, tại Merksem, ngoại ô thành phố Anvers. Cậu là quí tử duy nhất của một gia đình Công Giáo đạo đức và khá giả. Năm lên 5 tuổi, cậu bé được các sư huynh La-San tiếp nhận vào trường, vì trí thông minh trổi vượt của cậu. Từ đó cậu thức dậy mỗi buổi sáng theo thân phụ đi lễ. Trên đường về, Herman đặt không biết bao nhiêu câu hỏi. Nhờ dịp này, ba cậu giải thích cho cậu hiểu về giáo lý, về các mầu nhiệm trong Kitô Giáo. Herman say mê nghe cha nói và bắt đầu yêu mến đặc biệt Chúa Giêsu Thánh Thể. Từ đó nảy sinh trong cậu lòng ước ao rước Mình Thánh Chúa.

Mùa Xuân năm 1937, giáo xứ bắt đầu chuẩn bị cho các trẻ em xưng tội rước lễ lần đầu. Năm đó Hermen mới tròn 6 tuổi. Cậu năn nỉ xin cho được rước lễ lần đầu. Nhưng cha sở cương quyết từ chối, vịn cớ Herman còn nhỏ tuổi. Sớm lắm cũng phải đợi thêm một năm nữa. Nhờ lời cam đoan của người cha, cha sở hạch hỏi giáo lý và ngạc nhiên thấy Herman thông thạo tất cả những điều cần biết. Cha sở liền nhận Herman vào số các trẻ rước lễ lần đầu năm đó. 

Ngày 14-7-1937 là ngày trọng đại đối với Herman. Cậu bé 6 tuổi chuẩn bị thật nghiêm trang tề chỉnh, thật sốt sắng để rước Chúa Giêsu Thánh Thể, trước cặp mắt thán phục của nhiều người.. Và sau ngày trọng đại đó, Herman luôn trung thành dự lễ và rước lễ mỗi ngày.. Trong phòng riêng của mình, Herman dọn một chỗ làm nơi cầu nguyện, có bàn thờ. Trên bàn thờ cậu trưng bày đủ các vật dụng dâng thánh lễ như chén thánh, đĩa thánh v.v. Đây là những vật bằng gỗ do ông dượng của Herman làm nghề thợ mộc sản xuất cho. Cậu cũng được thân phụ làm quà cho áo lễ. Niềm vui lớn lao nhất của Herman là được “cử hành thánh lễ” trong phòng. Vốn có trí nhớ lạ thường cọng với lòng sốt sắng chăm chú mỗi khi tham dự thánh lễ, Herman gần như có thể lập lại tất cả các cử điệu của vị linh mục khi ngài dâng thánh lễ. Cậu cũng thuộc lòng một số kinh đọc trong thánh lễ bằng tiếng la tinh.

Từ niềm vui được dâng thánh lễ trong phòng, Herman lại nài nĩ xin cha cho phép cậu gia nhập đoàn giúp lễ trong giáo xứ. Nhưng cha cậu bảo: “Để xứng đáng trở thành chú giúp lễ, con phải làm nhiều việc hy sinh hãm mình”. Không hề đắn đo do dự, Herman bắt đầu làm không biết bao nhiêu việc hãm mình để được ghi tên vào danh sách các chú giúp lễ. Mùa đông 1940-1941, mặc dầu trời thật lạnh và bị đau chân, Herman vẫn trung thành đến nhà thờ dự lễ mỗi ngày.

Năm đó cha của Herman bị tan gia bại sản vì quá tốt với bạn bè. Ông bị thất nghiệp và gia đình lâm cảnh bần cùng. Đây là thời gian biểu lộ những đức tính anh hùng của vị “linh mục tí hon”. Cậu an ủi khích lệ cha can đảm đặt trọn niềm tin vào Chúa. Mỗi tối gia đình quy tụ để lần hạt Mân Côi và cầu nguyện chung. Một tối vì quá buồn, đang lúc đọc kinh, mẹ cậu bỗng bật khóc và nói: 

– “Đọc kinh mà làm gì khi Chúa không nghe lời chúng ta kêu cầu?”. Herman liền nói với mẹ: 
– “Giá trị của lời cầu nguyện ở chỗ kiên trì, nếu không, nó vô nghĩa lý”. 

Để đạt ước nguyện trở thành chú giúp lễ, Herman luôn thi hành châm ngôn: 

“Cầu nguyện và hãm mình”. Khi lên 9 tuổi, cậu lại nài nĩ cha cho phép giúp lễ. Cha cậu chấp thuận. Thật là niềm vui bao la. Ngày đầu tiên sau khi giúp lễ về, cậu hãnh diện thưa với mẹ: 

– “Từ nay, nếu mẹ muốn xin Chúa ơn gì, mẹ hãy nói với con, con sẽ xin cho mẹ, vì con là người gần Chúa nhất”..

Để xin Chúa cho ba có việc làm, Herman bắt đầu làm tuần chín ngày. Và cậu đã kiên trì làm đến tuần thứ 25 thì ba cậu tìm được việc làm. Cậu vui sướng nói với cha mẹ: 

– “Ba má thấy chưa, khi kiên trì cầu nguyện, chắc chắn Chúa sẽ nhận lời chúng ta cầu xin”. 

Một ngày, sau khi giúp lễ, cha sở hỏi cậu: 
– “Con vẫn ước ao trở thành linh mục phải không?”. Herman trả lời ngay: 
– “Thưa cha phải. Làm linh mục hoặc không làm gì hết!”.

Ngày 2-4-1941, Herman bị trượt ngã khi chơi với các bạn. Cậu bị thương nặng và mất rất nhiều máu. Linh tính giờ chết đến gần, cậu báo cho ba má biết và vui lòng chấp nhận.. Herman bị mổ hai lần, nhưng không kết quả. Sau lần mổ thứ hai, Herman bị mê sảng. Trong cơn mê, cậu “cử hành thánh lễ”. Chị nữ tu canh giữ cậu hỏi: 

– “Con nhìn gì khi truyền phép?”. 

Herman trả lời: 
– “Con trông thấy Đức Mẹ: Đức Mẹ đẹp quá. Bây giờ đã trông thấy Đức Mẹ rồi, con không còn muốn nhìn một ai khác cả”. 

Hai ngày sau khi bị tai nạn, Herman Wijns êm ái trút hơi thở cuối cùng, đúng 10 tuổi. Được tin cậu qua đời, một linh mục nói: “Bây giờ Herman là vị linh mục tí hon cạnh Chúa Giêsu Kitô”.

(“STELLA MARIS”, Mensuel d’informations religieuses, Juillet/Aout 1992, trang 22-23)

Chia sẻ Bài này:

Related posts