Sáng
tinh sương 14-2-1925, sau cơn bệnh ngắn, Jacques Rivière nhắm
mắt lìa đời trong niềm an bình vô tả, hưởng
dương 39 tuổi.
39
tuổi đời, bỏ lại vợ trẻ và hai con thơ, hẳn Jacques
phải có Đức Tin sâu xa
lắm mới có thể vui lòng chấp nhận thánh ý Chúa cách can đảm
như thế! Sự thật không phải như vậy. Cuộc đời anh trải
dài chuỗi ngày bất an, thao thức không ngừng tìm kiếm sự
thật.
Jacques
Rivière sinh ngày 15-7-1886 tại Bordeaux, Tây Nam nước Pháp. Thân
phụ Jacques là giảng sư đại học y khoa và là bác sĩ trưởng
nổi tiếng về sản khoa. Sở dĩ ông đạt tới đài cao danh
vọng là nhờ công đức vợ hiền. Bà là người đàn bà gương
mẫu, hy sinh trọn vẹn cho chồng cho con.
Để
giúp chồng thành công trong bước đầu sự nghiệp, bà vừa
phụ chồng vừa đảm đương mọi việc trong gia đình và dưỡng
dục bốn người con. Cùng với dòng sữa cho con bú bà truyền
cho con tình thương và nhất là lòng tin nơi THIÊN CHÚA. Nhưng
vì quá hy sinh bà kiệt sức và qua đời sớm, khi trưởng nam
Jacques mới lên 10 và đứa con út mới 4 tuổi.
Cái
chết bất ngờ của hiền mẫu ghi vết thương sâu đậm nơi
tâm hồn thơ trẻ của Jacques. Tất cả bị đảo lộn. Jacques
hụt hẫng và đánh mất tất cả: niềm tin vào THIÊN CHÚA cùng
niềm tin vào con người và vào cuộc đời. Từ cậu bé nhạy
cảm thông minh cậu trở thành đứa trẻ lầm lì chán nản ..
Niềm đau mất mẹ trở nên cay đắng hơn khi thân phụ tái giá.
Người mẹ kế không có bàn tay và con tim từ mẫu của mẹ
hiền quá cố. Jacques đi từ tuyệt vọng này đến tuyệt
vọng khác và chỉ còn biết tìm an ủi nơi văn chương sách
vở.
Jacques
đặc biệt say mê các tác phẩm của hai văn sĩ Pháp nổi
tiếng đương thời: một thuộc phái hiện sinh và một là tín
hữu Công Giáo. Đó là André Gide (1869-1951) và Paul Claudel
(1868-1955). Cả hai đều bị khủng hoảng Đức Tin, thao thức
tìm kiếm chân lý và khát vọng vô biên. Nhưng sau đó Paul
Claudel tìm thấy chân lý và trở về với Giáo Hội Công Giáo.
Chính tư tưởng tôn giáo vững chắc của Paul Claudel đã
soi dẫn Jacques trên con đường tìm lại Đức Tin, bị đánh
mất sau cái chết của mẹ hiền.
Lập
gia đình vào năm 1909, Jacques dần dần tạo quân bình tâm lý
và nội tâm. Anh bắt đầu tham dự Thánh Lễ. Anh thích đến
nhà nguyện các nữ đan sĩ Biển Đức ở Paris. Bầu khí cầu
kinh trang nghiêm cùng các buổi hát phụng vụ bình ca sốt
sắng đã thu hút tâm hồn vừa tôn giáo vừa nghệ sĩ của
Jacques. Thêm vào đó hình ảnh thanh khiết của các nữ tu lôi
cuốn óc tò mò. Anh tự nhủ: “THIÊN CHÚA phải là Đấng Toàn
Năng Chí Thánh, Đấng Hằng Sống mới có thể thu hút các
trinh nữ tận hiến trọn tuổi thanh xuân trọn cuộc đời cho
Chúa, để hát khen chúc tụng Ngài”.
Năm
1911 đứa con gái đầu lòng kháu khỉnh chào đời. Jacques Rivière
cảm nhận bé Jacqueline là món quà sự sống Chúa ban. Từ đó
nẩy sinh trong anh tâm tình ghi ơn sâu xa và hoàn toàn tín thác
nơi lòng nhân hậu vô biên của THIÊN CHÚA. Đây cũng là lúc
Jacques lăn xả vào các hoạt động văn chương. Anh viết báo,
viết sách và thuyết trình về nhiều đề tài kể cả về Đức
Tin Kitô. Khi bài ‘‘Từ Niềm Tin” - hoa quả suy tư, học
hỏi và tìm kiếm - được đăng tải tức khắc Paul Claudel
viết cho Jacques: ‘‘Anh đã
tiến khá xa trên đường tìm kiếm lòng tin. Chặng đường còn
lại .. hình như không xa lắm”.
Đúng
thế, Lễ Giáng Sinh năm 1913, Jacques dọn mình sốt sắng rước
Mình Thánh Chúa GIÊSU KITÔ tại nhà nguyện nữ đan sĩ Biển
Đức ở Paris.
Đức
Tin tìm lại đã giúp Jacques thắng vượt những khó khăn và
can đảm chấp nhận thử thách suốt trong thời thế chiến
thứ nhất 1914-1918. Anh trở thành điểm tựa, niềm an ủi cho
bạn bè và những ai có dịp sống gần anh, đọc tác phẩm
anh hoặc nghe anh thuyết trình.
Nhưng
rồi thử thách sau cùng xảy đến. Tháng 12 năm 1924, Jacques
Rivière bị sốt thương hàn. Một tháng rưỡi sau anh trút hơi
thở cuối cùng, hưởng dương 39 tuổi. Khi lãnh nhận Bí Tích
Xức Dầu Bệnh Nhân, anh vui mừng nói lớn: ‘‘Giờ đây tôi
được cứu rỗi cách diệu kỳ”. Sau đó, từng chập trong cơn
hấp hối, giữa cuộc chiến chống lại tử thần, anh nói: ‘‘Cánh
cửa mở rộng. Tôi trông thấy ánh sáng”. Anh nói với vợ
lời cuối cùng: ‘‘Hãy can đảm, hãy can đảm” .. Rồi
anh lịm đi trở về với Ánh-Sáng Ngàn-Đời Vĩnh-Cửu, Ánh Sáng
anh không ngừng tìm kiếm suốt cuộc đời anh.
(Isabelle
Rivière, ‘‘À la Trace de DIEU: Jacques Rivière”, Louvain 1952).