Vụ
khủng bố ngày 11-9-2001 tại New York, Hoa Kỳ, đã làm cho hơn
200 nhân viên cứu hỏa bị thiệt mạng. Đa số là người
gốc Ái-nhĩ-lan hay gốc Ba-Lan và là các tín hữu Kitô rất sùng
đạo, trung thành với các truyền thống Công Giáo tới xương
tủy.
Cũng
tại thành phố New York, hàng năm có hơn phân nửa số nhân viên
cứu hỏa bị thương trong khi thi hành nhiệm vụ. Ngoài ra
trung bình mỗi năm có đến 8 nhân viên tử nạn ..
Người
ta tự hỏi lý do nào đã thúc đẩy nhiều người chọn nghề
cứu hỏa, khi mà tính mệnh của họ luôn bị đe dọa, lâm
nguy? Sau đây là chứng từ của ông Dennis Smith, nhân viên
cứu hỏa với 18 năm hành nghề.
Tôi
ghi danh vào đội binh cứu hỏa của thành phố năm tôi 21
tuổi. Gia đình tôi rất nghèo. Chúng tôi sống trong khu xóm bình
dân. Khi ghi danh, tôi không ý thức rõ tất cả trách nhiệm cũng
như hiểm nguy của nghề nghiệp, nhưng chỉ có lờ mờ trong
đầu ý tưởng: rồi đây mình sẽ trở thành nhân viên công
lực của thành phố. Và một khi có được nghề nghiệp,
cuộc sống và tương lai sẽ được bảo đảm.. Thứ đến, nơi
trường tôi theo học, các nữ tu không bao giờ khuyến khích
chúng tôi chọn nghề bác sĩ hay luật sư. Đối với các
nữ tu, chúng tôi là những đứa trẻ được mời gọi: hoặc
trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ - bởi vì Hiến Pháp Hoa Kỳ cho
phép mọi công dân được trở thành Tổng Thống của
Hiệp-Chủng-Quốc! - hoặc trở thành lính cứu hỏa hay nhân
viên cảnh sát! .. Thế là tôi ghi danh vào sở cứu hỏa thành
phố.
Cuộc
thi tuyển thật khó khăn. Chúng tôi phải trải qua nhiều
cuộc khảo hạch, đặc biệt liên quan đến đời sống luân
lý, đến sức chịu đựng của tinh thần và của thể xác.
Rồi đến những tuần lễ dài vừa học lý thuyết vừa
thực tập các buổi chữa lửa. Tuổi thanh niên thật hăng
say, giàu thiện chí và cả trí tưởng tượng nữa.. Khi lặn
ngụp trong các làn khói, các vòm lửa và các vòi nước, tôi
mơ màng hình ảnh mình là vị anh hùng, lăn xả vào các đám
cháy, cứu thoát một em bé, trèo qua cửa sổ, rồi xuất
hiện trước tiếng vỗ tay hoan hô vang dội của đám đông!..
Sau
cùng, tôi được chính thức chấp nhận làm nhân viên cứu
hỏa của thành phố New York, và hành nghề trong một khu phố
nghèo với đủ thứ tệ trạng: xì-ke ma-túy, cướp bóc buôn
lậu và những vụ hỏa hoạn giết người..
Càng đi vào thực tế nghề nghiệp, càng chạm trán với
những hoạn nạn và những đau khổ của con người, tâm tính
tôi càng chín mùi và lòng yêu chuộng nghề nghiệp của tôi cũng
được thanh luyện. Giờ đây tôi chiến đấu cứu thoát người
gặp hiểm nguy thật, nhưng không phải với lòng hãnh diện căng
phồng, mà là với một chủ đích hoàn toàn dấn thân phục
vụ.
Một
ngày, hiền thê tôi - giống như mọi bà vợ của nhân viên
cứu hỏa khác - tỏ dấu lo âu cho tính mệnh của tôi. Cứ
mỗi lần tôi ra đi thi hành công tác là mỗi lần nàng thấp
thỏm mong chờ tôi trở về bằng an. Tuy nhiên, để trấn an
vợ, tôi không biết giải thích ra sao với nàng về lý tưởng
nghề nghiệp của tôi. Cho đến một ngày, chính nàng thổ
lộ: “Phải có người làm nghề như anh đang làm. Em
bắt đầu chấp nhận thực tế, dầu vẫn tiếp tục lo âu.
Chẳng hạn đêm nay, em không thể nào chợp mắt được. Em
trằn trọc với ý nghĩ: 'mình nằm đây an toàn, trong khi
chồng mình phải vật lộn với cơn lửa tàn ác'.. Nhưng đàng
khác, em cũng cảm thấy thật hãnh diện về anh, giống như ba
đứa con của chúng ta. Chúng hãnh diện biết rằng, Ba chúng có
mặt trên chiếc xe cứu hỏa, chạy hết tốc lực với còi
hụ réo vang. Còn em, em biết rằng, anh làm một nghề mà anh
nghĩ là phải làm, để phục vụ cho công ích. Ý tưởng này
giúp em can đảm”.
Nghe
vợ nói thế, tôi cảm thấy lòng tràn đầy an ủi. Còn gì
hạnh phúc hơn là sự tâm đầu ý hợp của đôi vợ chồng!
Có được sự cảm thông của vợ, tôi còn hưởng nếm được
tình huynh đệ chân thành giữa các bạn cùng nghề. Sát cánh
bên nhau trong gian nguy, trong chiến đấu, chúng tôi thực tình
yêu thương đùm bọc nhau. Chúng tôi lo lắng cho tính mệnh
của nhau và chăm sóc nhau, nếu chẳng may có người bị thương
trong khi thi hành nghề nghiệp.
Giờ
đây, kiểm điểm lại chặng đường 18 năm hành nghề, tôi
gặt được một thành quả to lớn: đó là tôi trở nên một
người nhân hậu, cảm thông hơn, khi hàng ngày đụng chạm
với khổ đau của con người, khổ đau mà đôi khi chúng tôi
hoàn toàn bất lực, đau đớn lặng nhìn những tang thương, xé
nát ruột gan.. Và tôi đã không bao giờ hối tiếc vì đã
chọn hành nghề cứu hỏa, cũng như tự hứa sẽ tiếp tục
tận tâm hành nghề này..
(“Sélection
du Reader's Digest”, Février 1974, trang 145-178).