Mario
Handfield là thanh niên Canada. Anh phục vụ nơi Trung Tâm
Pharillon ở Québec. Trung Tâm tiếp đón người trẻ, đặc
biệt các bạn trẻ bụi đời. Anh tỏ ra đứng đắn, yêu đời,
quảng đại giúp đỡ người khác và có Đức Tin sâu xa. Nhưng
dĩ vãng cuộc đời anh đau buồn và đen tối. Chính anh kể
lại.
..
Tôi sinh ra trong gia đình thật nghèo và thật đáng thương.
Mẹ tôi nghiện rượu còn Ba tôi đau thần kinh. Ba tôi tự
tử khi tôi lên 8 tuổi. Sau cái chết của Ba, mẹ tôi nhốt tôi
vào phòng, khóa cửa lại, vì bà không giáo dục được tôi.
Tôi trải qua những tháng ngày cô đơn vì bị ruồng bỏ hoàn
toàn.
Hai
năm sau mẹ tôi tái giá với người đàn ông tên Georges. Vào
thời kỳ này tôi bắt đầu say mê môn thể thao lướt
thuyền trên biển. Không bao lâu tôi thắng giải trong nhiều
cuộc thi đua, được lãnh huy chương vàng và trở thành vô địch
Canada.. Phải thú nhận tôi thành công là nhờ ‘‘Cha
Ghẻ”, Cha thứ hai của tôi. Georges không ngừng khích lệ tôi.
Ông dành thời giờ cho tôi. Ông tỏ ra sung sướng hài lòng trước
cố gắng và chiến thắng của tôi. Ông nói với tôi:
-
Ba yêu con và coi con như con ruột của Ba.
Cách
cư xử của Georges khiến tôi hiểu rằng: muốn được người
khác để ý, yêu thương và công nhận khả năng của mình,
cần phải lập nhiều thành tích, nhiều chiến thắng vẻ
vang. Thật ra tôi là đứa trẻ thiếu tình thương từng bị
ruồng bỏ, nên rất cần sự chú ý của người khác. Vì
thế hễ thấy người lớn nào chú ý đến tôi, tức khắc tôi
bám chặt vào người ấy. Đó là lý do giải thích tại sao tôi
từng ăn chơi trác táng.
Các
cuộc thi đua thể thao cống hiến cho tôi nhiều dịp đi vòng
quanh Canada cùng lúc đưa tôi vào vòng nô lệ của ma túy.
Thời
gian sau đó người Cha thứ hai của tôi qua đời. Cái chết
của Georges gieo nơi tôi nỗi trống vắng tinh thần kinh
khủng.. Không còn ai để ý đến tôi, vui mừng vì những
chiến thắng của tôi. Tôi lại rơi vào tình trạng cô đơn
của ngày lên 8 khi người Cha ruột thứ nhất qua đời.. Tôi
sống trong đen tối. Để có
tiền mua thuốc phiện, tôi đánh đổi tất cả kể cả nghề
trộm cướp.
Tôi
bị bắt giam. Trong tù tư cách tôi chẳng thay đổi chút nào.
Tôi ở tù hai năm và được thả ra. Nhưng tôi chỉ ở ngoài
vỏn vẹn 19 ngày rồi bị bắt trở lại. Cứ thế tôi vào tù
ra khám như cơm bữa.
Một
hôm trong tù vì giành nhau chút ma túy, tôi bị bạn tù đâm
thủng lưng suýt chết. Người ta chuyển tôi sang nhà giam riêng
biệt. Nơi đây chỉ mình Cha Tuyên Úy có quyền gặp tôi. Ngoài
ra không ai được phép tiếp xúc với tôi. Trong phòng biệt
giam tôi chỉ có cuốn Kinh Thánh làm bạn.. Tôi bắt đầu đọc
Kinh Thánh và cảm nghiệm Tình Thương Chúa dành cho tôi. Mỗi
lần Cha Tuyên Úy đến thăm tôi nài van: ‘‘Xin Cha nói với
con về Chúa”.
Sau
đó tôi được trả tự do. Vừa ra khỏi tù tôi trở lại thói
cũ là trộm cướp có vũ trang. Trong cuộc trốn chạy cảnh sát
tôi bị thương nơi chân. Bị thương nơi chân quả là phép
lạ, bởi lẽ đạn bắn như mưa mà tôi không trúng đạn
chết!
Trở
vào tù tôi tìm đọc lại Kinh Thánh. Lần này, trong bóng tối
nhà giam, tôi như nhìn rõ từng biến cố xảy ra trong cuộc đời.
Tôi nhận ra sự hiện diện của Chúa. Tôi cũng biết Chúa đang
đứng trước cửa lòng tôi và chờ đợi. Nếu tôi quyết định
mở cửa và mời Chúa, Chúa sẽ vào ngay. Tất cả tùy thuộc
nơi tôi.
Tôi
quyết định phó thác toàn thân cho Chúa. Tôi tha thiết cầu
xin Chúa giúp tôi bỏ ma túy. Lạ lùng thay chỉ một sớm một
chiều tôi cai được ma túy. Từ đó đến nay tôi không hề
đụng tới ma túy.
Tháng
10 năm 1992 tôi được trả tự do và làm việc tại Pharillon,
Trung Tâm đón tiếp người trẻ. Từ đây tôi muốn làm
chứng cho người khác về Tình Thương nhân hậu bao la của
THIÊN CHÚA, Đấng đã đổ máu và chết trên Thánh Giá vì tôi.
Chứng
tá tôi cảm động và sứ điệp tôi được người trẻ
lắng nghe. Họ thấy rõ tôi là người hạnh phúc, một kẻ
sống lại từ cõi chết, sống lại nhờ Tình Thương Vô Biên
của THIÊN CHÚA.