Legio Mariae
Trang Nha
 
 

 

 

Nhóm Tiếng Vọng

 

Đây là nhóm do chị Nguyễn Thị Vinh thành lập. Chị là một giáo dân, vì xót thương những bệnh nhân AIDS bị bỏ rơi, đã cùng với gia đình ra tay giúp đỡ. Gương hy sinh của chị đã lôi cuốn nhiều giáo dân khác – nam cũng như nữ, trẻ cũng như già, đủ mọi thành phần xã hội – tham gia nhập cuộc để băng bó vết thương đau của những nạn nhân xấu số nầy.

 

Nhóm được thành lập năm 1999, lúc đầu chỉ có hơn chục người, không trụ sở, chẳng nguồn tài trợ. Tài sản lớn nhất của nhóm là sự đoàn kết và những tấm lòng đầy nhiệt huyết. Thế rồi tất cả cũng dần dần ổn định, dù còn rất nhiều khó khăn.

 

Hiện tại, thành viên nhóm Tiếng Vọng độ 30 người, có người khỏe mạnh, có người nhiễm HIV. Nhưng tất cả đều giống nhau một điểm là tấm lòng thương yêu đối với bệnh nhân.

 

TIẾT MỘT

SỰ HÌNH THÀNH NHÓM TIẾNG VỌNG

 

Được cha Nguyễn Viết Chung giới thiệu, tôi đã đến thăm chị Nguyễn Thị Vinh tại tư gia và tại hai gian phòng nhỏ nằm khuất sau nhà thờ giáo xứ Phú Trung là nơi chị săn sóc bệnh nhân HIV/AIDS mỗi buổi sáng, từ thứ hai đến thứ bảy, để tìm hiểu nhóm “Tiếng Vọng”.

 

Tư gia chị Nguyễn Thị Vinh

 

Tôi đến thăm chị Vinh vào trưa Chúa nhật tại đường Cách Mạng Tháng Tám (tức Lê Văn Duyệt trước kia), vào hạ tuần tháng 10/2006. Đó là một căn nhà hai tầng lầu, phía trước cho người ta mướn để sửa xe gắn máy. Chúa nhật là ngày duy nhất trong tuần chị được nghỉ ngơi để chăm lo việc nhà, vì những ngày khác chị bận săn sóc bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS.

 

Địa chỉ chị Nguyễn Thị Vinh:

876/27 CMT8 P.5

Q. Tân Bình TP HCM

ĐT: (08) 846 0494

DĐ: 0908 325899

Email: echovinh@yahoo.com

 

Vừa bước vào nhà, sau khi chào hỏi xong, chị mời tôi ngồi xuống ghế salon. Những cú điện thoại tới tấp. Tôi phải đợi khoảng mười lăm phút, chị mới có thể tiếp chuyện được.

 

Chị Vinh không có dáng dấp khác thường, khiến người ta có thể đoán biết chị là một giáo dân được ơn gọi đặc biệt như thế. Thấy chị có vẻ xông xáo, năng động và còn nhiều năng lực, tôi có cảm tưởng chị là một doanh gia nhiều hơn.

 

Ơn gọi của chị

 

Qua sự trao đổi với tôi, chị cho biết cách đó khá lâu, chị làm ăn phát đạt, làm sở hữu mấy căn nhà. Nhưng chị cũng nhận ra rằng của cải, tài sản dù có nhiều đến đâu khi chết cũng không mang theo được. Từ đó, chị cảm thấy ơn gọi phải phục vụ người khác hơn là kiếm tiền.

 

Trước kia đã lâu, nhân tham dự một cuộc tỉnh tâm ở Dòng Chúa Cứu Thế, chị cảm thấy ơn gọi dấn thân phục vụ cho những nạn nhân xấu số đang mang căn bệnh thế kỷ là HIV/AIDS. Chị may mắn được chồng vốn là một người tu xuất, đã hổ trợ chị trong công tác nầy. Ngoài ra các con của chị cũng giúp đỡ chị nữa.

 

Săn sóc tại gia

 

Trước khi thi hành công tác phục vụ bệnh nhân HIV/AIDS, chị Vinh đã đi khắp nơi, từ trại cùi, nhà trẻ mồ côi đến các vùng dân tộc thiểu số… làm công tác xã hội - từ thiện, nhưng công việc phục vụ như bây giờ thì quả thật chị chưa từng nghĩ tới. Tất cả như một sự xếp đặt và khi chị đã dính vào rồi thì không thể dứt ra được nữa.

 

Khi bắt tay vào việc chăm sóc bệnh nhân AIDS, trước tiên chị đi khắp hang cùng ngõ hẻm, lượm lặt những kẻ đang cận kề cái chết để lau rửa vết thương, thay quần áo, cho thuốc men... Nhặt được bệnh nhân đang trong cơn nguy kịch là chị đưa ngay đến bác sĩ. Nhiều người từ chối thẳng thừng, thậm chí còn mắng chị rỗi hơi, “ôm rơm nặng bụng”, chỉ đến lúc biết chị là tham vấn viên, họ mới dịu bớt.

 

Sức người có hạn, đất Sài Gòn lại rộng mênh mông, chạy suốt ngày vẫn không xuể, chẳng còn cách nào khác, chị bấm bụng thuê một căn nhà trên đường Lê Văn Quới, huyện Bình Chánh làm nơi tá túc cho các bệnh nhân để dễ bề chăm sóc. Được một thời gian, hết tiền, chị liều mạng đưa luôn họ về nhà, nhưng nhà thì chật, lại còn chồng con, hàng xóm... Nhà đó chính là nơi chị đang tiếp tôi.

 

Với vốn liếng y học ít oi, nhưng chị vẫn xông xáo. Nhìn thấy gương hy sinh của chị, từ từ nhiều tình nguyện viên tham gia và trở thành “nhóm Tiếng Vọng”.

 

Năm 2002, chị có tham gia khoá học chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS do UNICEF tổ chức tại Hà Nội và năm 2004, chị đã tham gia khoá huấn luyện chăm sóc và điều trị HIV/AIDS do Uỷ Ban Phòng Chống AIDS TP Saigon phối hợp với chương trình ESTHER của Pháp tổ chức.

 

Tuy nhiên việc chị săn sóc bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS tại gia cũng đã khiến lối xóm phẫn nộ chống đối. Chị cũng phải mất công phân giải để họ thông cảm. Lúc bấy giờ chị quen biết một linh mục làm phó xứ và ngài cũng cảm thông với công tác hoạt động tông đồ của chị.

 

Ít lâu sau, cha đó được bổ nhiệm làm chánh xứ của một họ đạo. Đó là cha xứ nhà thờ Phú Trung, Phường 11, Q.Tân Bình. Ngài cho chị mượn hai phòng trong giáo xứ: thế là có chỗ để khỏi phải chạy đôn chạy đáo khắp nơi, dù thời gian chỉ được sử dụng từ sáng đến trưa.

 

Trong lúc chị đang nói chuyện với tôi khoảng hai tiếng đồng hồ thì những cú điện thoại thỉnh thoảng cứ vang lên, chị phải ngưng lại để trả lời rồi nói chuyện tiếp.

 

Yêu cho đến cùng

 

Vào năm 2004, nhóm “Tiếng Vọng” đã xuất bản “Đặc San số 5”, với tựa đề “Yêu Cho Đến Cùng” nhằm trình bày những công tác của Nhóm đã thực hiện. Vào thời điểm đó, Nhóm được 5 tuổi. Nhân dịp đến thăm chị, tôi được chị trao tặng một tập đặc san nầy mà nội dung nói lên tính cách đa dạng của nhóm, quay chung quanh trọng điểm “tình yêu”.

 

Lưu Nguyễn Thảo Vân là  một nhóm viên đã nói lên “Con đường tình yêu của nhóm Tiếng Vọng như sau: Tôi chợt nhớ đến câu: “Bạn hãy cứ cho đi và đừng đòi hỏi sẽ nhận lại được gì vì bạn sẽ nhận nhiều hơn những gì bạn đã cho đi…” Đúng là tôi (Thảo Vân) đã nhận được rất nhiều từ những bệnh nhận. Tất cả rồi cũng sẽ qua đi, cũng sẽ nhạt nhòa và tàn phai theo năm tháng. Chỉ còn lại tình yêu, tình đồng loại giữa con người với con người. Càng dấn thân vào con đường phục vụ mọi người, tôi càng thấm thía bài thánh ca thuở nào: “Người ơi hãy nhớ mình là tro bụi, một mai người sẽ trở về bụi tro…”

 

TIẾT HAI

PHÒNG KHÁM BỆNH TẠI GIÁO XỨ PHÚ TRUNG

 

Săn sóc bệnh nhân tại giáo xứ

 

Trong một bài viết gần đây, Ngọc Anh – Thanh Thúy đã mô tả cảnh tượng săn sóc bệnh nhân AIDS tại giáo xứ Phú Trung như sau:

 

Vài bệnh nhân được người nhà đưa đến khám, chỉ còn da bọc xương, vật vờ như cái bóng. Nhìn không gian tĩnh lặng, ít ai biết trong hai căn phòng nhỏ ấy có những thiên thần đang tất bật, gồng mình giành giật từ tay tthần chút thời gian ít ỏi cho các bệnh nhân AIDS.


Chị Vinh nhẹ nhàng dùng tay nắn khối hạch to như trái cam, đỏ lừ dưới cổ cô gái, dịu dàng nói: “Con vẫn hút thuốc à? Cô đã nói con đừng hút nữa, sao con không nghe?”. “Bỏ thuốc khó lắm, nhưng từ giờ con sẽ cố” – cô gái đáp lại bằng lời lẽ hết sức lễ phép, khác hẳn với gương mặt lỳ lợm, nhuốm nét bụi bờ của cô.

 

Sau cô gái, từng người, từng người một, hầu hết đều còn rất trẻ, đến ngồi cho chị khám. Với ai, chị cũng ân cần hỏi kỹ tình hình tiến triển của bệnh: “Con còn ngứa không? Có đau chỗ nào không?” rồi bắt há miệng, xem nấm họng, mở áo xem những chỗ viêm loét.

 

Chị không phải là người thân của họ, chẳng ai trả tiền cho chị làm công việc mà rất nhiều người không dám làm này. Vậy mà cả chục năm nay chị đã gắn bó với những con người bất hạnh ấy.

 

Có những kẻ vì hút chích, chơi bời mà vướng bệnh, nhưng cũng không ít người là nạn nhân, bị lây bệnh từ người thân hoặc do đạp phải kim tiêm, ống chích. Tất cả họ đều mang án tử hình lơ lửng trên đầu và họ đến với chị như chỗ dựa cuối cùng để bấu víu. Không phải bác sĩ cũng chẳng phải dư ăn dư để, chị chỉ là một người dân hết sức bình thường.

 

Đồng bệnh tương lân

 

Ngọc Anh – Thanh Thúy  kể  tiếp:

 

Trong lúc chờ gặp chị Vinh, chúng tôi thấy một thanh niên chừng 27 - 28 tuổi say sưa đọc sách. Nhìn anh cũng khỏe mạnh như những người bình thường, hỏi ra mới biết anh tên Hùng, một thành viên của nhóm Tiếng Vọng.

 

Chuyện đời của Hùng nghe thật buồn. Hùng đã từng có một gia đình hạnh phúc, êm ấm với cha mẹ và một cô em gái. Năm Hùng học lớp mười, rạn nứt giữa cha mẹ bắt đầu xuất hiện và ngày càng không thể hàn gắn: hai người đưa nhau ra tòa, Hùng bỏ nhà đi bụi. Trộm cắp, bảo kê... việc gì anh cũng làm. Bạn bè rủ chơi ma túy, Hùng tham gia rồi nghiện ngày càng nặng.

 

Những cuộc gặp gỡ giữa anh với mẹ và em gái chỉ toàn nước mắt. Không thể nhìn những người thân đau khổ mãi, Hùng quyết định tự cai và năm 2000, anh đã thật sự đoạn tuyệt với “nàng tiên áo trắng”.

 

Những tưởng đó chỉ là một quãng đời lầm lỗi và tất cả sẽ qua, nhưng năm 2004, Hùng bị viêm ruột thừa phải nhập viện mổ. Kết quả xét nghiệm HIV dương tính đã khiến anh như ngây dại. Suy sụp rất nhanh, khi đến với chị Vinh, người Hùng chỉ còn da bọc xương, đi không vững.

 

Được những người bạn trong nhóm Tiếng Vọng hết lòng chăm sóc, sức khỏe hồi phục. Hùng bắt đầu lo cho những người cùng cảnh ngộ. Dù biết thời gian của mình còn không nhiều, nhưng anh vẫn rất lạc quan. Hùng cho biết dù đã bỏ học 12 năm, nhưng bây giờ anh đang đi học lại. Xong cấp III, anh sẽ tham gia lớp điều dưỡng để giúp những người cùng cảnh ngộ.

 

Đi thăm phòng khám bệnh giáo xứ Phú Trung

 

Vào một buổi sáng thứ sáu trong tuần, cha Nguyễn Viết Chung đi khám bệnh cho các bệnh nhân ở giáo xứ Phú Trung, tôi đã xin phép cha cho tháp tùng đến đó. Cha chở tôi đi xe gắn máy. Sau khi đi qua Lăng Cha Cả trước kia – nay không còn dấu vết nữa – cha phải chạy thêm vài đoạn đường khác mới tới giáo xứ đó. Tuy còn sớm mai, khoảng trên tám giờ mà đường sá đã tấp nập xe cộ.

 

Khi băng qua sân giáo xứ Phú Trung để vào phòng khám bệnh, tại một góc sân, vài xe gắn máy của bệnh nhân đã đậu sẵn ở đó. Nhìn những anh chị mắc bệnh, thân thể tiều tụy, nét mặt không vui, tôi cảm thấy đau lòng.

 

Bước qua một hành lang hơi tối, mới vào một căn phòng chật hẹp, hơi thiếu ánh sáng và không được sạch sẽ cho lắm, với những dụng cụ thuốc men ngổn ngang, tôi cảm thấy một sự buồn nôn. Trông mấy anh chị bệnh nặng đang nằm trên mấy chiếc giường củ kỷ ở phòng kế bên, đợi được khám bệnh và cho thuốc, tôi không có đủ can đảm nhìn họ.

 

Thấy cha Chung bắt đầu sửa soạn khám bệnh – ngài vẫn vui vẻ hồn nhiên – tôi cảm thấy mình lạc lõng xa lạ. Nhìn quanh, tôi càng cảm thấy ớn lạnh hơn. Chỉ trong năm mười phút thôi, tôi đành xin phép cha Chung ra về trước, mặc dù chị Vinh chưa tới để tôi chào hỏi. Tôi không đủ can đảm ở lại lâu hơn.

 

Ra đường, tôi vừa đi vừa nghĩ ngợi. Giữa lúc xe cộ đang tấp nập chạy trên một đại lộ lớn thì ngay bên lề đường, một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi đang nằm cựa quậy, hình như bị chếnh choáng hơi men hay bị cơn ma túy dằn vật, tôi không rõ. Người qua kẻ lại, họ chỉ liếc mắt nhìn rồi thanh thản đi qua. Hình như cảnh tượng đó xảy ra rất thường, giống cơm bữa vậy.

 

Tôi đứng lại nhìn nạn nhân năm ba phút rồi cũng đành lòng đi qua, biết mình bất lực, không làm gì được.

  

TIẾT BA

CHỊ TRƯỞNG NHÓM

 

Một quản lý viên bảo hiểm cao cấp

 

Theo Tony Trần, chị trưởng nhóm Nguyễn Thị Vinh là một phụ nữ có chồng và là mẹ của ba người con. Trước kia chị là một quản lý bảo hiểm cao cấp của công ty Prudential đang làm ăn phát đạt tại Việt Nam. Ngoài việc chu toàn bổn phận người vợ và người mẹ trong gia đình, chị còn là “sếp” của một nhóm tình nguyện viên hoạt động từ nhiều năm nay, chuyên chăm lo cho những người bị nhiễm HIV/AIDS ở giai đoạn cuối.

 

Không những chị tham gia mà còn lôi kéo cả đại gia đình của chị tham gia một cách tích cực và vui vẻ để phục vụ những bệnh nhân xấu số. Ngôi nhà của chị như là một tổng đài điện thoại để giải đáp những thắc mắc và trở thành điểm tập trung cho những trận “xung kích” của nhóm.

 

Tự bạch

 

Riêng chị Nguyễn Thị Vinh đã cho biết về chị như sau: Chồng tôi bảo tôi là kẻ chuyên thương vay khóc mướn. Mọi bạn bè đều nói tôi là đồ khùng. Nhưng tôi cũng chẳng thấy tự ái.

 

Tôi bắt đầu công việc “khùng” nầy từ cuối năm 1988. Lúc đó là buổi cuối cùng của ngày tĩnh tâm tại Dòng Chúa Cứu Thế và cha Vũ Khởi Phụng đã kêu gọi trong nhà thờ là có những bệnh nhân AIDS bị bỏ rơi trong các bệnh viện, rất cần người giúp đỡ. Chính cụm từ “bị bỏ rơi” nầy ám ảnh tôi, khiến tôi bức xúc, nên tôi đã nhanh chóng ghi tên vào danh sách đầu quân tình nguyện.

 

Tôi được bác sĩ Nguyễn Đang Phấn huấn luyện cấp tốc về chuyên môn. Nói thiệt, tôi chẳng hiểu biết tí gì về y học và vốn liếng học vấn lại ít ỏi. Tôi chỉ có được một ít hành trang để mang vào công việc phục vụ nầy: đó là “tấm lòng, bầu nhiệt huyết và lòng kiên trì của tôi”. Tất cả những gì Chúa trao ban cho tôi từ sức khỏe, trí khôn, tiền bạc, học vấn, kinh nghiệm…tôi đều dốc tâm sức ra để phục vụ Ngài. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc được phục vụ!

 

Có lần một người bạn hỏi tôi: “Em còn khả năng để kiếm được nhiều tiền, sao em không làm mà lại lao vào chuyện ‘ruồi bu’ nầy, vừa mất thời giờ vừa không giống ai?” Tôi trả lời: “Với những con người bị mọi người xa lánh, hất hủi nầy, họ cần đến sự ‘ấm áp tình người’ để ra đi thanh thản. Mình đã làm được điều họ cần và mình cảm thấy hạnh phúc. Cuộc sống của con người là gì? – Là mưu cầu hạnh phúc – vậy mình kiếm được hạnh phúc rồi, cớ gì lại phải đi tìm một hạnh phúc khác, mà chắc gì mình toại nguyện?

 

Vả lại tôi cũng nghĩ thêm là bây giờ tôi còn khỏe mạnh, trí khôn còn minh mẫn để làm việc, sao tôi lại không dốc tâm để phục vụ? Mai nầy tôi già, gối thì mỏi, chân thì chồn, lúc đó tôi có muốn phục vụ thì cũng không còn đủ sức để hoạt động nữa. Không biết với lối suy nghĩ nầy – tôi có trở thành kẻ gàn dở hay không?

 

Tôi may mắn được người chồng luôn ủng hộ tôi làm công tác nầy. Các con tôi cũng thế. Những lúc không có ai đi cùng hoặc đêm hôm thanh vắng có những “ca” gọi cấp cứu, tôi đành phải nhờ đến con và chồng tôi. Có nhiều lúc bệnh nhân làm phiền hà gia đình tôi cả vào những giây phút riêng tư tôi dành cho gia đình, nhưng có lẽ do sự “đam mê” của tôi nên các thành viên trong gia đình tôi cũng đành phải chấp nhận.

 

Đối với các nhóm viên Tiếng Vọng cũng vậy, hình như họ cũng bị lây “cái khùng” của tôi. Tôi rủ họ đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì cho dù dơ bẩn, hôi hám…họ cũng đều làm một cách nhiệt tình hăng say mà lại còn vui vẻ nữa mới chết chứ!

 

Trong khi tôi đang viết những dòng chữ nầy thì em K. gọi điện về báo cho biết bệnh nhân tên B. không còn lấy được “ven” nữa. Bây giờ lại một cú điện thoại khác: chị T. báo cho biết em L. ở quận 2 vừa chết. Thêm một cú gọi điện thoại khác của em T. báo cho biết anh T. hết thuốc lao rồi, tới nhà lấy thuốc bây giờ được không?

 

Dẫu biết rằng tất cả đều là tình nguyện viên, họ làm việc vì Chúa và cho chính bản thân họ, nhưng nếu có chuyện gì bất trắc xảy ra cho họ trong khi đi làm công tác thì tôi sẽ bị ân hận biết bao vì chính tôi là người đã “xúi” họ đi.

 

Cuối cùng chị tâm sự với Chúa:

 

Lạy Chúa! Chúa biết tất cả mọi sự. Chúa biết chúng con cần gì và muốn gì. Chúa biết những nỗi ưu tư và băn khoăn của chúng con. Chúng con dấn thân vào con đường phục vụ bệnh nhân AIDS với hoài bão làm giảm đi những nỗi đau khổ cách nầy hay cách khác mà một số người phải chịu đựng.

 

Với hoài bão ngăn chặn sự phát triển của đại dịch thế kỷ nầy, chúng con làm với tinh thần hoàn toàn vô tư. Chúng con không cần danh cũng không cần lợi. Chúng con cũng chẳng dám nghĩ đến Chúa ban lại ơn cho chúng con. Chúng con làm vì chúng con yêu mến Chúa thực sự và tình yêu thương đồng loại của chúng con.

 

Như Chúa đã từng dạy bảo chúng con: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt 25, 40)

 

TIẾT BỐN

NHÓM VIÊN

 

Đủ mọi thành phần

 

Ngày lễ Chúa Kitô Vua là mừng sinh nhật và là bổn mạng của nhóm.

 

Năm tháng qua đi, có biết bao người từ mọi thành phần như sinh viên, công nhân, tu sĩ, bác sĩ…và cả những bệnh nhân đến với nhóm. Mỗi người mỗi cung cách, mỗi hoàn cảnh, mỗi tuổi tác khác nhau và ngay cả tín ngưỡng tôn giáo khác nhau nữa…nhưng cùng chung một tinh thần.

 

Bác sĩ Nguyễn Đang Phấn

 

Tony Trần đã viết: Tôi vô cùng cảm kích tấm lòng “lương y như từ mẫu” của bác sĩ Phấn là người đã cưu mang và cứư giúp biết bao con người xấu số. Vốn là một bác sĩ danh tiếng ở thành phố Saigon, ngoài việc hành chánh ở hai bệnh viện, bác sĩ Phấn còn dành nhiều thời giờ để giúp đỡ những bệnh nhân bất hạnh bằng chính nghề nghiệp chuyên môn của mình.

 

Những bệnh nhân đã kéo dài thêm cuộc sống và cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn với sự chăm sóc tận tình và đầy tình yêu thương của cả hai vợ chồng bác sĩ. Người ta cảm thấy vui và hãnh diện về những người Công Giáo như vợ chồng bác sĩ Phấn đã sống đúng tinh thần của Chúa Kitô.

 

Những tình nguyện viên

 

Tony Trần nhận xét về những tình nguyện viên như sau: Họ là những người vô danh, những giáo dân, những sinh viên còn rất trẻ, những cô thợ may duyên dáng, những nhân viên của các công ty đầy hứa hẹn, những chàng thợ hồ cục mịch, những giáo viên thanh lịch…sẵn sàng ra đi khi có những ca nguy tử! Họ như là “hoa trong kẽ đá”, một cách nói ví von tuyệt đẹp của một linh mục. Họ đang làm cho vườn hoa cuộc đời phong phú thêm, tươi đẹp hơn nữa!

 

Vào nhóm thế nào

 

Ngọc Bích cho biết đã quen với nhóm Tiếng Vọng như sau: mình thì rất thích làm công tác xã hội, nhưng không biết nhóm nào để gia nhập và cũng chẳng ai rủ rê mình cả.

 

Tình cờ trong xóm mình ở có một cô gái trước đây làm nghề cắt móng tay dạo, mọi người đều thấy càng ngày cô ấy càng gầy gò xanh xao rồi lại mụt nhọt lở loét nữa. Tất cả dân trong xóm đều bàn tán, xầm xì. Họ bắt đầu xa lánh cô, không ai dám gọi cô làm việc nữa cả. Thế là cô bị thất nghiệp, không công ăn việc làm và tinh thần cô suy sụp.

 

Cô nằm bất động trong căn nhà trọ với đứa con trai năm tuổi. Thằng bé vô tư hồn nhiên, loanh quanh trong xóm, vui đùa với các trẻ em khác. Biết mẹ bệnh, không dậy nấu ăn được, nó bèn đi xin ăn ở các nhà chung quanh. Mọi người tò mò vào nhà xem mẹ nó ra sao?

 

Lúc đó mình mới biết tin nầy cũng vào thăm. Thật là tội nghiệp! Cô ấy nằm im trên nền đất, đầu tóc rụng hết, miệng đầy những bợn trắng (sau nầy mình mới biết đó là nấm). Mọi người đều đoán là cô ấy bị “sida” và tránh xa cô.

 

Do ông xã mình có quen biết với một Sơ ở Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm, mình bèn gọi điện thoại lại trình bày hoàn cảnh của cô gái thì được một Sơ ở đây cho biết có một nhóm tên là “Tiếng Vọng” chuyên giúp đỡ các bệnh nhân nầy và họ cho địa chỉ, số điện thoại.

 

Mình mừng quá và liên lạc ngay với chị trưởng nhóm. Được chị hướng dẫn tận tình, mình đem cô ấy đi xét nghiệm và lo thuốc thang cho cô ấy. Mấy ngày sau cô ấy ăn được và ăn rất nhiều. Sau đó chị trưởng nhóm đã liên hệ với Trung Tâm Mai Hòa và xin cho mẹ con cô ấy vào Trung Tâm. Ở đó cô ấy đã được các Sơ chăm sóc tận tình cho đến ngày cô ấy về với Chúa.

 

Đáp lại Tiếng vọng

 

Chị Kim Anh cho biết đã đáp lại Tiếng Vọng như sau: lúc đầu tôi chẳng thích cái nhóm nầy tí nào, làm việc thì giờ giấc lung tung. Tôi thấy có những lúc ông xã tôi mới đi làm về nhà hoặc có được ngày nghỉ thì khi nghe điện thoại gọi tới, ông phóng đi liền, mấy tiếng đồng hồ sau mới trở về, làm tôi phải đợi cơm muốn chết.

 

Khi về nhà, thì bụng đói, mồ hôi nhễ nhại. Ấy vậy, nét mặt ổng tươi roi rói. Thấy ổng vui, tôi tôn trọng chồng, không muốn nói ra những nỗi bực dọc của mình. Ngồi ăn cơm chung, ông kể toàn những chuyện gớm ghiếc, buồn nôn.

 

Tôi định bụng lúc nào đó sẽ gặp chị trưởng nhóm hỏi cho ra lẽ, nhưng chưa có dịp…Rồi sau đó làm quen và xin gia nhập nhóm. Một buổi chiều nọ, Chị Vinh trưởng nhóm rủ tôi đi công tác lần đầu tiên. Hai chị em chở nhau tiến vào con hẻm ngoằn nghèo ở quận 1, vào một căn nhà ẩm thấp, tối thui, dơ bẩn…Một em trai đang nằm co người trên chiếc ghế salon rách nát.

 

Chị Vinh tiến lại gần hỏi han. Tôi ngửi thấy mùi tanh hôi từ cơ thể em bốc ra, chân tay sưng phù, móng chân móng tay đầy mủ như sắp rụng đến nơi, đầu cũng sưng to, tóc rụng hết trơn, da đen thâm và những vẩy ở da của em rụng đầy trên nền nhà. Nhìn hình ảnh kinh tởm đó, tôi khiếp quá chạy ra ngoài đường, đứng bịt mũi, tanh quá, chịu không nổi…

 

Rồi chị Kim Anh kể tiếp một kinh nghiệm khác:

 

Lần khác, tới nhà bệnh nhân ở quận 6 thì đã 19 giờ.  Thấy người bệnh rên la, đau đớn, chúng tôi tập trung vào việc: đứa nấu nước nóng cho uống thuốc, đứa lo chuyền nước biển, đứa day huyệt trên đầu cho bệnh nhân bớt nhức…Sau khi bệnh nhân êm êm, chị Vinh dặn dò người nhà ít câu, chúng tôi rút lui.

 

Chị Kim Anh còn ghi lại một cảm tưởng đau buồn khi đi thăm một bệnh nhân còn trẻ: chúng tôi từ giã em và gia đình, em nhìn theo không chớp mắt. Khi bước chân ra tới cửa, tôi ngoảnh lại vẫn thấy đôi mắt em nhìn theo. Ánh mắt nầy làm tôi không sao quên được. Ra về, lòng tôi muốn khóc. Tôi thấy em đáng thương quá! Em không muốn chết, với cái tuổi còn quá trè: 19 tuổi!

 

Công tác của các nhóm viên

 

Nguyễn Huỳnh Linh Thảo mới 23 tuổi đời nhưng đã có một thời gian khá dài tiếp xúc và chăm sóc những người bị nhiễm HIV. Là giáo viên, một buổi đi dạy, buổi còn lại Thảo đến với Nhóm Tiếng Vọng để chăm sóc những người bị nhiễm HIV.

 

Thảo là một cô gái nhỏ bé có đôi mắt biết cười và đôi bàn tay dịu dàng khi chăm sóc bệnh nhân. Trong căn phòng nhỏ của nhóm, Thảo như con thoi lui tới giữa các giường bệnh: truyền nước biển, lau rửa vết thương, chích thuốc... Công việc luôn tay, nhưng cô vẫn líu lo trò chuyện, thỉnh thoảng trong phòng lại vang lên tiếng cười của bệnh nhân dành cho cô tiên nhỏ bé.

 

Thảo tâm sự: “Không hiểu sao, cứ giúp được gì cho người bệnh là thấy tâm hồn mình nhẹ hẳn. Trước đây, vì bận công việc, em đã tính xin nghỉ, nhưng chỉ được vài ngày nhớ không chịu nổi, phải quay lại làm!” Mẹ và em trai Thảo không những ủng hộ việc làm của cô mà còn tham gia nên Thảo rất yên lòng.

 

Thảo đã từng có bạn trai nhưng khi biết Thảo tham gia làm tình nguyện viên chăm sóc những người nhiễm HIV, gia đình người ấy đã ra sức cấm đoán tình yêu của hai người. Không vượt qua được rào cản, người ấy đã chia tay Thảo.

 

Nhắc lại chuyện cũ, buồn một chút rồi Thảo lại vui ngay: “Từ thời sinh viên, em đã tham gia công việc này rồi, đi học khi nào trong ba lô cũng có kim tiêm, bông băng, nước biển và thuốc men, hễ có người báo ở đâu có bệnh nhân cần giúp đỡ là em đón xe buýt đi liền. Có lần một bạn học thấy trong ba lô em có kim tiêm, tưởng em nghiện nên báo lên khoa. Năm đó dù là bí thư chi đoàn nhưng em vẫn không được danh hiệu sinh viên ba tốt. Cũng may, sau đó nghe em trình bày, thầy cô và các bạn hiểu nên quý em hơn”.

 

Chuông điện thoại đổ từng hồi như giục giã, Thảo nghe xong rồi chuẩn bị túi thuốc tất tả lên đường.

 

Riêng Chú ba cho biết công tác của các nhóm viên như sau: chăm sóc, cung cấp thuốc men, đút ăn uống, làm vệ sinh, thay quần áo, hớt tóc, cắt móng tay, móng chân, quạt mát, ân cần hỏi thăm. Nếu ai có nhu cầu tâm linh thì đã có vài linh mục sẵn sàng đáp ứng.

 

Nếu bệnh nhân trong đạo hấp hối lâm chung thì chúng tôi đọc kinh trợ tử, tiễn đưa họ về nơi nhà Chúa. Rồi chúng tôi cúi người, đặt lên trán họ một chiếc hôn êm dịu, sau khi ghi dấu Thánh Giá với lời nguyện nầy: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha.

 

Nếu bệnh nhân là lương dân thì chúng tôi kín đáo ghi dấu Thánh Giá, kính cẩn hôn lên trán họ và thì thầm với họ: “Nấy anh (nầy chị), xin chúc bạn thượng lộ bình an. Cha từ ái của chúng ta đang chờ đón bạn và khi gặp Ngài, xin hãy nói lại với Ngài rằng anh chị em chúng tôi đây là kẻ còn ở lại nơi trần thế, chúng tôi đặt hết lòng trông cậy vào Ngài.

 

Nếu họ từ giả cõi trần trong nỗi cô đơn, không người thân thuộc lo việc tống táng thì chúng tôi cậy nhờ vào vài thân hữu để phụ lực với chúng tôi đưa họ về nơi an nghỉ cuối cùng.

 

Năm năm trong sứ mệnh phục vụ

 

Peter Tâm đã nhìn lại đoạn đường đi qua như sau: bước vào ngày khai giảng khóa học kỹ năng chăm sóc bệnh nhân, với con số hằng trăm người, khóa học hoàn tất còn lại con số vỏn vẹn 8, 9 người theo chân Chúa. Trải qua năm tháng cho đến ngày hôm nay con số lên được 25 anh chị em, đặc biệt chị trưởng nhóm bây giờ là người hy sinh khai phá cho nhóm được thành tựu tới ngày hôm nay.

 

Dừng chân trong một thoáng suy tư, nghĩ lại con đường đến với các bệnh nhân, bao kỷ niệm thân thương vui buồn của người thi hành sứ mệnh yêu thương nơi bệnh nhân, để dệt thành bài ca dâng lên Thiên Chúa.

 

Vâng! Với hai từ “Tiếng Vọng” làm cho các thành viên lăn lộn vào các bệnh viện, nơi công viên, nơi những con hẻm quanh co… Có những con người nằm lang thang vất vưởng, nơi đầu đường xó chợ, hoặc cả nơi những căn nhà tồi tàn, không có cả cánh cửa mà đóng, nơi chân cầu thang của các chung cư…

 

Nơi nào cần đến “tiếng” là các chiến sĩ lên đường, sẵn sàng ra đi cho dù đêm khuya, mưa gió. Cứ hai thành viên trên chiếc xe cà rịch cà tang, tay trong tay, nào thuốc, nào băng…hối hả tất bật tiến thẳng về phía đang “vọng”. Làm sao cho kịp xoa dịu những vết thương, làm nhẹ đi những cơn đau, hoặc đem bình an đến cho những bệnh nhân đang trong cơn hấp hối, sắp từ giã cuộc sống nơi dương thế, để được an nghỉ trong lòng đất mẹ yêu dấu. Đó là điều các bệnh nhân hằng mong ước khi biết mình mắc phải căn bệnh thế kỷ…

 

Theo Chúa Kitô dễ hay khó

 

Quang Lê – một người bạn của nhóm – đã viết: xét theo khía cạnh trần thế, mọi người làm việc phải được thưởng công xứng đáng, không ai làm công không cho ai bao giờ. Vậy các bạn đã được gì? Được bao nhiêu đồng lương? Có chăng thì chỉ nhận được những lời chỉ trích nơi những người thân của các bệnh nhân mà các bạn chăm sóc.

 

Quả thật, theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa, không cần phải đắn đo nhiều, mặc dù phải trả giá nhiều. Nhưng chúng ta phải xác tín rằng Lời Chúa luôn là kim chỉ nam cho cuộc đời chúng ta: “Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Chúa Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Chúa Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Chúa Kitô và được kết hợp với Người…” (Pl 3, 7-9).

 

Tâm tình đối với bệnh nhân

 

Cỏ Mây đã thổ lộ những tâm tình của mình khi tiếp xúc với bệnh nhân HIV/AIDS, như sau:

 

Tôi đã biết: rơi những giọt lệ xót thương khi nhìn thấy những người bạn mà tôi chăm sóc bấy lâu đã nằm lại và yên nghỉ nơi giấc ngủ ngàn thu. Cuộc đời sao mà ngắn ngủi đến thế và liệu rằng tôi đã sống xứng đáng là một người Kitô hữu chưa?

 

Tôi đã biết: con tim mình thổn thức khi nhìn thấy những cảnh đời éo le, cuộc sống lầm than không nơi nương tựa, vậy mà đã có lúc tôi nhìn họ với cặp mắt khinh thường.

 

Tôi đã biết: đưa bàn tay mình ra để nắm lấy những bàn tay xương xẩu, khẳng khiu, run lẩy bẩy…nhưng cũng chính nhờ cái nắm tay ấy mà tôi hiểu được sự khác nhau giữa một cái bắt tay hững hờ mang tính chất xã giao và một cái bắt tay chứa chan tình người.

 

Tôi đã biết: nụ cười của mình rất quan trọng vì nó có thể đem lại một niềm hy vọng lớn lao cho một bệnh nhân nào đó, những lời động viên an ủi của mình sẽ thắp sáng lên niềm tin yêu cuộc đời trong những giờ phút cuối cùng của họ.

 

Tôi đã biết: cuộc sống không hề kết thúc khi ta ngưng hơi thở hay khi trái tim ta ngừng đập – nhưng cuộc sống chỉ đổi thay từ một thế giới hữu hình sang một thế giới siêu nhiên mà thôi.

 

TIẾT NĂM

BỆNH NHÂN

 

Số lượng gia tăng

 

Thúy Huyền bày tỏ nỗi niềm chua xót như sau: giữa nơi thành thị phồn hoa đô hội và tráng lệ nầy, vẫn còn rất nhiều mảnh đời cơ nhỡ, đơn côi.

 

Những bệnh nhân AIDS không chỉ là niềm đau của xã hội nói chung mà còn là của từng gia đình có con em mắc bệnh nói riêng. Nỗi đau ấy làm cho chúng tôi không thể nhắm mắt làm ngơ. Các anh chị em nhóm Tiếng Vọng lại lên đường đem tình yêu thương và những vốn liếng ít ỏi về y học của mình đến với những bệnh nhân AIDS.

 

Những năm qua, số lượng bệnh nhân không hề giảm đi, trái lại ngày càng gia tăng rất nhiều. Các anh chị ngày càng phải đi nhiều nơi, đi xa hơn, phải tự mua thuốc men để phát cho bệnh nhân nhiều hơn và bệnh nhân cũng chết nhiều hơn. Danh sách những bệnh nhân qua đời mỗi năm một dài thêm ra theo cấp số nhân, nhưng lực lượng của các thành viên trong nhóm vẫn vậy.

 

Có những lúc các anh chị đã phải thốt lên: “Chúa ôi! Chúng con phải làm sao đây? Bệnh nhân mỗi ngày một đông, đủ mọi thành phần, đủ mọi lứa tuổi…mà sức chúng con chỉ có hạn. Xin Ngài thêm sức mạnh, xin đừng bỏ chúng con.

 

Thăm viếng bệnh nhân

 

Chị Trần Thị Huệ đã mô tả “một buổi đi thăm bệnh nhân” như sau: đi đến gần Thủ Đức thì trời tạnh mưa hẳn, chúng tôi đi lòng vòng mãi mà chẳng tìm thấy nhà bệnh nhân, hỏi thăm ba bốn lần, người ta chỉ hết vào ngõ lớn rồi lại quẹo vào hẻm nhỏ…Rồi chúng tôi cũng tìm thấy nhà của bệnh nhân, chúng tôi gặp một thanh niên tuổi đời còn rất trẻ, nhưng thân người xanh xao, gầy yếu và đang trong cơn đau đớn vật vã, lòng tôi cảm thấy xót xa.

 

Mẹ của anh ngồi nói chuyện với chúng tôi và cho biết anh là người con thứ ba trong gia đình thường thích giao du và kết thân với bạn bè xấu nết rồi chúng rủ anh lao vào con đường nghiện ngập. Cuối cùng anh bỏ nhà đi bụi đời, sống rày đây mai đó, lang chạ với rất nhiều cô gái. Người phụ nữ sau cùng đã có với anh một đứa con. Khi cô ta biết anh đang bị nhiễm HIV thì đã bỏ anh, mang theo đứa con ra đi.

 

Khi căn bệnh AIDS bước vào giai đoạn cuối, anh lâm vào ngõ cụt của cuộc sống không lối thoát. Lúc ấy anh chợt nghĩ đến gia đình của mình, một gia đình mà bao năm qua anh đã bỏ rơi, không hề mảy may nhớ tới. Anh quay trở về với gia đình trong một tình trạng thật bi đát, thân hình tiều tụy, với căn bệnh đầy nguy hiểm, nhưng gia đình anh vẫn đón nhận anh.

 

Trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời, anh đã được sống trong tình thương yêu của gia đình, được cha mẹ chăm sóc ân cần. Chính tình thương đó đã đánh thức lương tâm anh. Qua lời khuyên bảo của cha mẹ, anh đã có những buổi nói chuyện với linh mục và đã lãnh nhận bí tích hòa giải.

 

Ba ngày sau chuyến viếng thăm đó, mẹ anh đã gọi điện thoại báo tin cho chúng tôi biết anh đã đi về với Chúa, trong sự thanh thản và bằng an của tâm hồn.

 

Mang bệnh vì ra tay nghĩa hiệp  

 

Chị Maria Trần Thị Phi cho biết một trường hợp đau lòng như sau: tôi hỏi thăm anh Che nguyên nhân nào khiến anh vướng phải căn bệnh nầy thì được biết là anh bị lây qua vợ.

 

Khi ở Kampuchia, anh gặp vợ là Dung ở trong nhà thổ khổ quá nên đã ra tay nghĩa hiệp bỏ 200 Mỹ kim để chuộc cô ra. Sau đó hai người đã lấy nhau và sinh được một đứa con trai nuôi được hai tuổi thì chết, nhưng họ cũng chẳng biết chết vì lý do gì, chỉ biết thằng nhỏ rất khó nuôi, bệnh hoài. Sau đó cả hai vợ chồng đi khám bệnh thì mới biết họ đều bị nhiễm HIV/AIDS.

 

Bị thân nhân ruồng bỏ

 

Người nhiễm HIV/AIDS không những bị người ngoài xa lánh mà còn bị ngay chính người thân của họ bỏ rơi. Chị Vinh kể về bệnh nhân tên Hà, nhà ở Q3. Chị gặp Hà trong Bệnh viện Nhiệt Đới khi Hà đã ở giai đoạn cuối của căn bệnh quái ác. Những người xung quanh cho biết: Hà có mẹ nhưng bà ta không nhìn nhận từ khi biết Hà nhiễm HIV.

 

Mỗi lần chị vào săn sóc, trong cơn đau của một cơ thể chỉ còn thoi thóp, Hà vẫn tha thiết xin chị tìm cách liên lạc cho Hà gặp mẹ lần cuối. Không cầm lòng được trước sự ăn năn dù muộn màng của đứa con lầm lỗi, chị tìm đến tận nhà năn nỉ mẹ Hà vào viện.

 

Đáp lại sự tận tình của chị là thái độ hết sức lạnh lùng, tàn nhẫn của anh trai và mẹ Hà: “Cái thứ đó cứ để nó chết đi chứ sống làm gì!” Sau đó vài ngày Hà ra đi trong cô độc và đau đớn. Theo chị Vinh: “Đôi khi bệnh nhân chết nhanh hơn không phải vì bệnh tật mà do sự tàn nhẫn của chính người thân”.

 

Có trường hợp bệnh nhân bị người nhà bỏ vất vưởng ngoài hiên, chị tìm đến lặng lẽ chăm sóc, tắm rửa, lau chùi, cho ăn trước mặt gia đình và không chỉ một, hai lần, chị tỉ tê khuyên giải: “Tôi là người dưng, tại sao tôi chăm sóc được mà gia đình lại đẩy con ra đường? Tôi không đẻ ra nó nhưng tôi xót xa mà sao chị dứt ruột sinh nó ra lại có thể nhìn nó thân tàn ma dại như thế?

 

Mềm lòng trước thành ý của chị, nhiều gia đình đã mở rộng vòng tay đón nhận con em mình.

 

Cha mẹ muốn con chết

 

Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh. Có hoàn cảnh đau lòng đến nỗi chị Vinh không bao giờ quên được. Đó là bệnh nhân tên Luận, nhà ở Q4. Chị đến chăm sóc Luận tại nhà và cho thuốc chữa các bệnh cơ hội nhưng sau vài ngày thấy Luận vẫn không đỡ chút nào. Dò hỏi mãi, Luận mới cho biết mẹ Luận không cho uống thuốc.

 

Hết sức bất bình trước sự nhẫn tâm ấy, gặp bà ta chị chỉ muốn làm ầm lên, nhưng khi nhìn thấy người đàn bà gầy gò, khắc khổ, chỉ lên bàn thờ với di ảnh một người già, hai người trẻ rồi nấc lên không thành tiếng: “Uống thuốc cũng chết mà không uống cũng chết! Chồng và cả ba thằng con rủ nhau chích chung, Luận là đứa cuối cùng. Lòng tôi chai đá rồi cô ơi”. Chị lại rơi nước mắt xót xa.

 

Một gia đình ở Gò Vấp có cả bốn đứa con đều nghiện và dính HIV. Mỗi lần chị đến chăm sóc chúng, người cha già hắt lên: “Trời ơi! Sao tôi khổ thế! Tôi cầu xin cho chúng chết mà sao chúng không chết!” Cha mẹ nào lại không thương con, nhưng với những người như thế, nỗi đau của họ dường như đã quá sức chịu đựng!

 

Bán nhà đất và vay nợ để lo cho con

 

Nhưng cũng có những gia đình thương con đến độ sẵn sàng bán hết đất đai nhà cửa, thậm chí đi vay nặng lãi để lo cho con. Khi con chết, người phụ nữ đó điện thoại cho chị Vinh nhờ bán nốt căn nhà nhỏ cuối cùng vì số tiền bà nợ đã lên tới cả trăm triệu đồng.

 

Chồng chết sớm, bà ở vậy nuôi con. Nhưng cả ba đứa con trai đều nghiện, nhiễm HIV rồi lần lượt bỏ bà đi. Gia tài “đội nón” theo những cơn vã thuốc của chúng. Đứa đầu bà còn lo ma chay được đầy đủ, đến thằng út chỉ còn là chiếc khăn thấm đầy nước mắt của người mẹ đầy đau khổ.

 

Bệnh mà không chạy chữa

 

Chị Anna Trần Thị Huệ đã chia sẻ như sau: tôi và chị Thanh được phân chia công tác sang quận II thăm gia đình chị Tuyết. Bước chân vào nhà chị, tôi nhìn thấy chị đang ôm 3 đứa con vào lòng mà khóc. Được biết chị đã mù do căn bệnh đưa đến. Chị không chạy chữa nữa vì chị quan niệm chữa cũng chết mà không chữa cũng chết. Chị chấp nhận ra đi để lại phần tiền đó cho con cái chị ăn học.

 

Con chị còn rất nhỏ, đứa lớn nhất lên 9 và nhỏ nhất mới có 3 tuổi. Rất may mắn là không có em nào bị lây qua từ mẹ. Lúc nào chị cũng lo âu về số phận 3 đứa con mình sẽ ra sao sau khi chị chết đi. Chị khóc lóc: “Cô Huệ ơi! Em sợ chết lắm, các con của em chúng nó còn nhỏ quá”. Tôi cầm nước mắt không được, cũng khóc theo chị, tôi đồng cảm với chị, vì tôi cũng là một người mẹ.

 

Căn bệnh mà chị đang mang là do người chồng chị lây qua cho chị. Chồng chị bị nghiện đã lâu, trước khi cưới chị. Nhưng chị chủ quan, không để ý, nên sau khi kết hôn được ít lâu chị mới biết thì chuyện đã rồi! Tuy nhiên chồng chị rất yêu thương chị và các con. Anh ấy cũng ham làm ăn, chỉ có mỗi điều là không thể bỏ ma túy được. Chính sự việc nầy làm cho anh ấy bị nhiễm do chích chung với người bạn nhiễm. Sau khi sanh đứa con thứ ba, chị mới phát hiện ra mình bị nhiễm HIV.

 

Khi biết chính mình là nguyên nhân lây bệnh cho người vợ thân yêu của mình, anh dằn vật ăn năn, hối hận, lo buồn. Anh quyết tâm cai nghiện tại nhà và được một linh mục ở Tây Ninh giúp đỡ. Sau khi thắng được con “ma túy”, hai vợ chồng anh và cả ba đứa con được lãnh nhận bí tích Rửa tội.

 

Người mẹ hết nước mắt khóc con

 

Chị Võ Thị Nhung cho biết câu chuyện thương tâm như sau: tôi ngạc nhiên khi nghe tin con mình sắp chết mà người phụ nữ nầy tỉnh bơ như không, chẳng chút xúc động. Đáng lý ra bà ta phải rất đau khổ khi chứng kiến cảnh sinh ly tử biệt với đứa con của mình, nhưng bà ấy lại rất bình tĩnh.

 

Chúng tôi hỏi thăm hoàn cảnh của bà thì được biết bà không còn nước mắt nữa. Bất hạnh đến với bà quá nhiều làm cho lòng bà trở nên chai đá. Bà có chồng và ba đứa con trai. Số kiếp của bà thật khốn nạn, chỉ gặp toàn những chuyện khổ đau.

 

Chồng của bà dính vào ma túy, bị nhiễm AIDS và đã chết được hai năm. Ba người con trai của bà cũng sa chân vào ma túy, đều bị nhiễm HIV/AIDS. Đứa con út của bà vừa mới chết cách đây vài tháng. Bà chỉ tay lên bàn thờ, nơi hai di ảnh đang ở trên đó: một người lớn tuổi, còn người kia thì mặt mũi non choẹt.

 

Bà chỉ vào người con trai đang hấp hối nói tiếp: “Thằng nầy cũng sắp lên đó luôn!” Bà cho biết đó là người con trai lớn nhất, còn người thứ hai thì đang ở trong tù: “Nó cũng bị AIDS luôn rồi, cầu xin cho nó chết luôn ở trong ấy”. Bà nói với vẻ mặt bình thản lạnh lùng.

 

Chợt bà nói về người con đang hấp hối: “Nó rất muốn theo đạo, các cô có thể gọi Cha tới giúp nó được không?” Chúng tôi ngồi xuống bên cạnh người sắp ra đi: “Em có muốn lên Thiên Đàng với Chúa không? Em có tin Thiên Chúa sẽ cứu rỗi em và tha thứ cho em tất cả mọi tội lỗi không? Em có tin…?” Chúng tôi hỏi và anh ấy gật đầu với ánh mắt thiết tha, mong mỏi.

 

Rất tiếc đó là chiều thứ bảy, chị trưởng nhóm đã gọi rất nhiều nơi nhưng tất cả các cha đều bận mục vụ, không thể tới được. Mọi người cầu xin cho anh ấy được sống đến 9 giờ sáng mai để chị trưởng nhóm có thể mời được một cha mà chị quen biết. Nhưng anh ấy đã ra đi hai giờ đồng hồ sau đó. Cũng còn may mắn là anh ấy đã nhận được ơn cứu rỗi nhờ một số giáo dân giúp đỡ.

 

Lấy vợ cho con bị nghiện ngập

 

Chị Phạm Thị Xoa cho biết: có những bậc cha mẹ có con em đã lỡ sa chân vào ma túy, nói hoài, dạy bảo hoài vẫn không nghe, thôi thì lấy vợ cho nó, biết đâu có vợ có con, nó sẽ…cải tà quy chánh, trở nên ngoan ngoãn…Nhưng họ đâu biết là đằng sau đó xảy ra bao nhiêu cảnh đau lòng, thương tâm và xã hội đang phải gánh biết bao hệ lụy.

 

Đó là những người vợ đáng thương lấy phải người chồng đã nghiện ngập, lại còn mắc thêm bệnh AIDS. Thế là những người vợ trẻ nầy vô tình bị lây qua, rồi những đứa con được sinh ra từ những bà mẹ nầy cũng mắc bệnh AIDS luôn!

 

Chúa Hài Đồng trong những em bé bị nhiễm HIV/AIDS

 

Khi thấy Noel trở về, Thảo Vân xót xa: nhìn ngắm Chúa Hài Đồng hôm nay tôi hay tự hỏi phải chăng những em bé bị nhiễm AIDS mà tôi có dịp gặp gỡ và chăm sóc ấy chính là Chúa Hài Đồng? Nhìn những thân hình nhỏ xíu, yếu ớt, trông thật tiều tụy và sự sống trong cơ thể mỗi em bé quả là những chuỗi ngày đấu tranh với tử thần để giành từng nhịp tim, từng hơi thở.

 

Chúa Hài Đồng – những em bé nhiễm AIDS – khi cất tiếng khóc chào đời là đã mang sẵn trong người căn bệnh của thế kỷ và đã được định đoạt sẵn tương lai sẽ đi đâu và về đâu rồi. Thế mà các em không hay, không biết sự ấy, các em vẫn vui tươi, vẫn cười đùa, còn sống ngày nào là các em còn vui chơi, còn hồn nhiên ngày ấy.

 

Cũng có những em bé vừa mới sinh ra là đã bị vứt ra ngoài lề xã hội, bị bỏ rơi không thương tiếc, được đưa vào viện mồ côi…Chúa Hài Đồng – những em bé bị nhiễm AIDS – nào có tội tình gì đâu? Hoàn cảnh của các em còn tệ hơn những hang đá vô tri vô giác kia. Mọi người trang hoàng hang đá đẹp đẽ lộng lẫy để nhìn để ngắm cho sướng con mắt, nhưng còn các em nhỏ ấy thì lại bị nhắm mắt làm ngơ.

 

Tâm sự đời tôi

 

Anh Nguyễn Hoàng Tân – một bệnh nhân – đã tâm sự như sau: tôi thích nhất lời của bài hát nầy: “Khi Chúa thương gọi tôi về, hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ, miệng tôi nức vui tiếng cười, lưỡi tôi vang lời ca hát ngàn dân tung hô, tôi thật vĩnh phúc…” Tôi sẽ mãi hát cho tôi, cho các bệnh nhân đang mang căn bệnh giống như tôi và hát cho cả mọi người.

  

TIẾT SÁU

LINH MỤC VÀ NAM NỮ TU SĨ

 

Sự thân tình giữa linh mục và bệnh nhân

 

Chị Vinh đã ghi lại sự giao tiếp giữa một linh mục và bệnh nhân như sau:

 

Khi cha đến thăm, bệnh nhân nói thật cảm động: “Cha mới đến hả Cha?” Cha cúi xuống gần anh ấy, gật đầu nói: “Ừ, tôi đến thăm anh đây!” Anh nói: “Con mong Cha mãi, con rất muốn được nắm tay của Cha, Cha ơi! Cha nắm tay con đi!

 

Một bệnh nhân khác, mới theo đạo được ít ngày thì qua đời. Lúc ấy là bữa trưa, lẽ ra cha được quyền nghỉ ngơi, nhưng khi được báo tin thì cha liền sốt sắng cùng đi để làm nghi thức an nghỉ cuối cùng cho bệnh nhân đó.

 

Sau khi đi lòng vòng, vào những con hẻm nhỏ như cọng chỉ, họ đến nơi. Căn nhà nhỏ tí, có lẽ còn nhỏ hơn cái “toa lét” của một gia đình bình thường, lại còn nằm dưới gầm cầu thang của một ngôi nhà khác nên cái hòm của người chết phải đặt ở ngoài sân, không thể mang vào trong nhà.

 

Trời nắng chang chang và rất nực. Cha mặc áo lễ dài đến chân, trông thật nực nội, nhưng cha vẫn sốt sắng cử hành mọi nghi thức và cầu nguyện cho linh hồn anh về nơi an nghỉ cuối cùng. Xong Thánh Lễ, cha cởi chiếc áo trắng dài ra, mọi người thấy lưng áo của cha ướt đẫm mồ hôi, trông thật tội nghiệp!

 

Thánh Lễ tại tư gia một Phật tử

 

Linh mục Dzu Mai Liên đã ghi lại cảm tưởng của cha khi đi dâng Thánh Lễ an táng cho một bệnh nhân tại tư gia của một Phật tử như sau:

 

Xế trưa hôm đó, một cú điện thoại của chị trưởng nhóm Tiếng Vọng: “Cha ơi, em Thảo ở đường Phan Văn Trị, Bình Thạnh, mới mất. Cha đến làm phép xác nhé, rồi đưa đi hỏa tảng luôn, em đã rửa tội rồi, cả nhà đều Phật giáo”.

 

Đầu giờ chiều hôm đó, chúng tôi đến nhà em. Thật bất ngờ và xúc động khi được biết em tự nguyện theo đạo qua đời sống đức tin của những anh chị em Công Giáo chăm sóc em. Khi ở với gia đình, em vẫn luôn vững lòng trông cậy và thành tâm sống đức tin của mình giữa mọi người không cùng niềm tin với em. Và cảm động biết bao, khi bà ngoại của em, một Phật tử sùng đạo, lại thỏa mãn mọi yêu cầu để em sống đức tin của mình.

 

Em xin được đi lễ Chúa nhật hằng tuần, thấy em bệnh, bà thuê Honda ôm mỗi tuần chở em đi lễ nhà thờ. Trước khi em nằm xuống và khi đã ra đi, chính bà và người thân đã chủ động liên hệ với các anh chị em trong nhóm Tiếng Vọng và quý Sơ Dòng Phan Sinh để xin cầu kinh, giúp đỡ phần hồn cho em.

 

Các thiện nguyện viên đã xin dâng lễ ngay tại nhà của em rồi mới đưa đi hỏa táng. Gia đình đã đồng ý và lấy khăn che hết các tượng Phật thờ trong nhà. Đó là một ấn tượng khó phai mờ trong đời linh mục của chúng tôi vì những anh chị em khác tôn giáo đã niềm nở đón tiếp Chúa đến với họ.

 

Gương hy sinh của các linh mục và nam nữ tu sĩ

 

Tony Trần tỏ ra rất thán phục những gương hy sinh của các người sống đời thánh hiến như sau:

 

Tôi rất khâm phục cha T. cha K. – những linh mục đầy nhiệt huyết – vì các ngài, tuy bận rộn, nhưng luôn dành nhiều thời giờ để thăm hỏi, giúp đỡ và ban bí tích cho những bệnh nhân xấu số trong những giây phút cuối đời. Các ngài sẵn sàng nói “có”, khi những tình nguyện viên điện thoại đến hay gặp các ngài để xin giúp trong những trường hợp nguy tử vào những giờ thật bất tiện trong ngày.

 

Tôi nghiêng mình cảm phục các Sơ L., T., Q….đang giúp các trại phong Qui Hòa, Bến Sắn và đặc biệt là Trung Tâm Mai Hòa dành cho các bệnh nhân HIV/AIDS ở giai đoạn cuối có được một sự thanh thản trước khi từ giã cõi đời. Họ chăm sóc cho những bệnh nhân hoàn toàn bị người đời và ngay cả những người thân bỏ rơi vì thân thể quá khủng khiếp!

 

Nhìn các Sơ nắm tay, đút từng muỗng cháo, mát-xa những chỗ đau nhức, chịu khó lắng nghe từng lời của những bệnh nhân nói không nên lời vì miệng bị lỡ loét trắng cả bên trong. Không còn lời nào hay hơn, đẹp hơn để diễn tả những hành động nhân ái của những nữ tu đã từ bỏ thiên chức làm mẹ theo xác thịt để hiến thân trọn vẹn cho Chúa bằng cách trở nên những người mẹ thiêng liêng đối với những đứa con đang thiếu vắng tình thương.

 

Tôi cũng muốn nhắc đến những nam tu sĩ, những thanh niên được thánh hiến đang phục vụ cách nầy hay cách khác để đồng hành với các nhóm tình nguyện trong việc giúp đỡ các bệnh nhân xấu số. Họ không phải là linh mục nên ít được mọi người tôn trọng theo phẩm vị, nhưng người ta lại kính trọng họ trong việc dấn thân phục vụ. Họ đã bước theo Chúa Kitô trong việc âm thầm phục vụ.

 

THAY LỜI KẾT

ĐƯỢC SAI ĐI

 

Thúy Huyền, trong bài thơ “Không đề”, đã cầu xin được “sai đi” như sau:

 

Lạy Chúa, nếu như Ngài muốn,

Nầy con đây, xin Ngài hãy sai đi.

 

Con mong sao đến chiều thứ bảy,

Khi mọi việc hoàn tất ở công ty,

Con chạy thật nhanh…thật nhanh,

Với “ngựa sắt” dù đường đi vất vả,

Khi trời buồn giăng mây đen.

 

Có những chiều mưa, đường trơn ngập nước,

Con suýt ngã, mắt hoen mưa.

Sẽ đi vì anh chị em mong chờ,

Đang rất cần đến sự giúp đỡ…

 

Có những chiều khô nắng vàng héo úa,

Cây bên đường ủ rũ, bụi đỏ lá xanh.

Đường xa, con nào có ngại,

Đem tình thương hâm nóng lại tình người.

 

Năm năm sao thời gian trôi nhanh quá!

Xem lại…con chưa làm gì cả?

Con mong sao tới chiều thứ bảy,

Cảm giác, ôi kỳ lạ làm sao!

Hồi hộp - thấp thỏm và đợi chờ,

Như cái hẹn ban đầu, thuở mới yêu.

 

Con lại đến với anh chị em:

Những khuôn mặt thật bơ phờ hốc hác,

Với màu da xanh xao vì thiếu máu,

Với thân hình gầy còm, thật đáng thương.

 

Họ mừng vui khác hẳn ngày thường,

Như được quà mỗi khi mẹ chợ về.

Chúa ôi! Họ dễ mến làm sao!

Thế mà người đời nhẫn tâm chối bỏ.

 

Lòng nhói đau, con thấy mình nhỏ bé,

Xin chỉ cho con biết đáp tình họ,

Trông họ vui mà con cũng mừng theo.

Một niềm vui đơn sơ và giản dị.

 

Họ tin tưởng nơi mỗi người chúng con,

Tiếng Vọng mãi luôn là người bạn tốt,

Luôn phấn đấu làm nhiều điều hay,

Để giúp đỡ anh chị em bệnh nhân!

Nhà văn Hương Vĩnh

Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

ÐạoBinh.com