...
Câu chuyện do bà Douglas Whynott, phụ nữ Kitô người Mỹ kể
lại. Một buổi chiều tháng 12 năm 1991, thân phụ tôi điện
thoại báo tin: ‘‘Mẹ các con cần thay tim”. Giọng Ba tôi
lạc quan tin tưởng, như thể vấn đề ghép tim cũng bình thường
như ghép bất cứ cơ phận nào khác. Nhưng phản ứng của
những đứa con gái của Ba Mẹ thì khác. Mặc dầu biết rõ
mẹ thường yếu tim, mệt tim, nhưng khi nghe mẹ phải thay
một quả tim khác, tự nhiên chúng tôi cảm thấy bồn chồn
lo lắng. Ngay ngày hôm sau, cả ba chị em chúng tôi đều có
mặt tại Tổng Bệnh Viện của thành phố Boston, thủ phủ
bang Massachusetts, để gặp vị bác sĩ chuyên chữa trị cho
mẹ chúng tôi.
Đó
là bác sĩ Marc Semigran, một chuyên viên ghép tim. Sau khi duyệt
qua hồ sơ bệnh tim của mẹ, ông nói với mẹ tôi:
- Khi dùng thuốc để chữa trị, bà có 60% cơ may sống thêm 6
tháng. Nhưng nếu thay tim khác, bà sẽ may mắn sống lâu hơn.
Tuy nhiên, trong trường hợp của bà, việc ghép tim gặp
nhiều nguy hiểm, vì bà đã cao tuổi.
Mẹ
tôi mĩm cười nói ngay: ‘‘Tháng Giêng năm tới tôi chẵn 60
đó bác sĩ ạ!”
Bác
sĩ Semigran nói tiếp: ‘‘Những người trên 60 tuổi thường
gặp nhiều khó khăn khi được ghép tim. Tim là cơ phận vừa
tế nhị vừa quan trọng. Để việc ghép tim thành công, các cơ
phận khác của người bệnh phải thật khoẻ mạnh. Cứ sự
thường, cơ thể không dễ dàng chấp nhận quả tim mới, vì
đó là quả tim gây xáo trộn trong giai đoạn đầu cho những
cơ phận khác”.
Từ
buổi gặp gỡ với vị bác sĩ chuyên viên ghép tim, tất cả
gia đình chúng tôi cùng nhau thương yêu đoàn kết và sẵn sàng
đối đầu với bất cứ rủi may nào trong cuộc đời mẹ tôi
và gia đình chúng tôi.
Một
thời gian sau, chúng tôi nhận tin từ nhà thương cho biết mẹ
tôi được chấp nhận ghi tên vào danh sách những người được
ghép tim. Vị bác sĩ nói với thân phụ tôi:
-
Sỡ dĩ các bác sĩ quyết định cho bà được ghép tim,
mặc dầu tuổi đã cao, vì sự hỗ trợ tinh thần rất lớn
của toàn gia đình ông.
Và
ngày mong chờ đã đến. Lúc 8 giờ tối thứ hai trong tháng 5
năm 1992, nhà thương báo tin có một quả tim sẵn sàng để ghép,
nên mẹ tôi phải tới ngay để chuẩn bị cuộc ghép tim..
Trước
khi lên đường, thân phụ điện thoại báo cho chúng tôi
biết. Tất cả chuẩn bị đến ngay nhà thương.
Những
cuộc ghép tim thường diễn ra ban đêm, vì các phòng mổ rãnh
rang. Cuộc mổ bắt đầu lúc 2 giờ 30 phút và kết thúc lúc
5 giờ 30 phút sáng. 2 giờ sau, Ba tôi cho 2 chị em chúng tôi
biết cuộc mổ kết thúc tốt đẹp. Bác sĩ nói đó là quả
tim còn khỏe của một thanh niên 21 tuổi. Nói xong, Ba tôi thêm:
-
Nhưng Ba sẽ không nói gì với mẹ các con, vì bà không muốn
biết tên của vị ân nhân đã cho bà món quà sự sống ấy!
Một
hôm tình cờ đọc báo, tôi biết đó là quả tim của một
sinh viên, bị trúng đạn trong một cuộc chạm súng. Chàng
bị hôn mê và bác sĩ tuyên bố đã chết. Cha mẹ chàng
quyết định cho các cơ phận của chàng cho những ai cần đến.
Và quả tim của chàng được trao cho mẹ tôi.
Một
tuần sau cuộc mổ, mẹ tôi có thể ngồi dậy và bắt đầu
đi lại đôi chút trong phòng. Chỉ có điều lạ là mẹ tôi cương
quyết không muốn nghe tên của vị ân nhân. Khi cô y tá bắt
đầu đề cập đến, thì mẹ tôi cắt ngang và chuyển sang đề
tài khác. Cô y tá bảo tôi tìm cách giải thích cho mẹ tôi.
Tôi
viết cho mẹ một bức thư. Tôi thưa với mẹ: ‘‘Cuộc
ghép tim của mẹ quả là phép lạ, một hồng ân THIÊN CHÚA.
Mẹ nên dùng quả tim mới này để tỏ tình tri ân các bác sĩ
và những người đã quyết định cho mẹ quả tim này, không
phải cho riêng mẹ nhưng cho bất cứ ai cần đến”.
Lá
thư của tôi làm mẹ tôi suy nghĩ nhiều. Bà bắt đầu đi nhà
thờ trở lại và dần dần bà cảm nghiệm rằng, quả tim
mới của bà thật sự là món quà sự sống đến từ THIÊN
CHÚA. Từ ý thức sâu xa đó, mẹ tôi cảm thấy có bổn
phận bày tỏ lòng ghi ơn đối với tất cả những ai góp
phần vào cuộc ghép tim và nhất là, đối với song thân của
vị ân nhân quá cố. Họ quảng đại trao ban các cơ phận
của con, làm món quà cứu sống những người đồng loại khác,
mà không cần biết danh tánh, cũng không đòi hỏi một cử
chỉ ghi ơn, trả ơn nào.
Phần
tôi, khi viết lên những dòng này, tôi muốn bày tỏ lòng tri
ân sâu xa đối với các vị ân nhân ẩn danh, đã trao ban cho
mẹ chúng tôi một món quà vô giá: món quà sự sống.