Một
công nương Thái Lan trở thành nữ tu tại Việt Nam
LTS.
Bài viết sau đây được trích từ An Ninh Thế Giới số 681
của nhà nước Việt Nam. Do vậy đã có một vài sự kiện
lịch sử trong bài không phản ảnh đúng sự thực,
VietCatholic trích đăng bài này với mục đích duy nhất là
vinh danh tấm gương của một vị nữ tu bỏ cuộc sống vinh
hoa ở một gia đình hoàng tộc Thái Lan để trở thành nữ tu
phục vụ các trẻ mồ côi tại Việt Nam. Câu chuyện đã
xảy ra hơn 40 năm trước.
Chỉ
một điều đơn giản nhất - tình yêu thương với những
mảnh đời bất hạnh, bà từ giã cuộc sống vinh hoa ở một
gia đinh dòng dõi hoàng tộc ở Thái Lan, trở thành nữ tu
rồi ở lại Việt Nam. Câu chuyện bắt đầu từ hơn 40 năm
về trước...
Ngồi cạnh tôi là anh Tô Văn Hậu, 48 tuổi, hiện quản lý
trại heo hơn 300 con trong Cô nhi viện Thiên Bình (Tam Phước,
Long Thành, Đồng Nai). Anh dáng người đậm, bàn tay phải bị
mất một số ngón. Như đoán được sự tò mò của tôi khi
nhìn vào những ngón tay bị mất ấy, anh Hậu giải thích:
“Một lần ép mía, cả bàn tay bị dính vào máy...”
Nhắc đến những ngón tay, chợt anh nhớ lại hồi ở cô nhi
viện, anh nấu bếp nên tay hay bị dính nhọ, rồi... chùi vào
ống quần. Dần như thành một cái tật, nhiều hôm cái quần
cộc của anh loang lổ những dấu đen. Cả tu viện không ai để
ý, ngoài sơ Bảy. Từ đó, sơ Bảy thường theo dõi những
lần anh nấu bếp và cứ mỗi lần chùi thì sơ “tặng” cho
một roi để nhớ. Sơ còn bảo, bàn tay đẹp thế, không nên
bắt nó phải làm một việc không đẹp. Chẳng bao lâu sau,
anh bỏ được cái “tật” đó.
Một thời gian, sơ Bảy phải rời cô nhi viện. Ngày gặp
lại anh Hậu bà đã bật khóc khi nhìn vào bàn tay của đứa
trẻ mà bà rất yêu thương năm nào...
Hậu bảo rằng, một ngày nào đó anh sẽ viết hồi ký về
cuộc đời mình. Anh đang cố chắp nối những mảnh ký ức
thành xâu chuỗi, nhưng có những lúc gián đoạn, có những
khoảng hẫng hụt. Phải bắt đầu như thế nào anh cũng không
biết nữa...
Bắt đầu từ tuổi thơ? Anh không biết đến đến bố. Anh là
con cả, phía sau còn hai đứa em. Vào một buổi sáng mẹ đưa
ba anh em vào một cô nhi viện ở An Giang. Mẹ bảo: “Mẹ
gởi con cho các sơ để con được học hành. Tuần tới mẹ
lại lên thăm”. Nói rồi mẹ đưa hai em về. Nhưng cũng từ
đó, anh không còn gặp lại mẹ và em nữa. Anh lớn lên trong
cô nhi viện.
Sơ
Bảy (hình của báo An Nin Thế Giới)
Và từ đấy, số
phận anh đã hồn nhiên gắn bó với cái cô nhi viện ở An
Giang đến năm 1970, sơ Toàn (Mẹ Bề trên) lên khai phá khu đất
Thiên Bình để lập cô nhi viện. Hậu là một đứa trẻ đầu
tiên có mặt ở Cô nhi viện Thiên Bình từ ngày ấy...
Lặng lẽ một hình ảnh trong quãng đời của Hậu là sơ
Bảy. Những năm đầu ở cô nhi viện, sơ Bảy chỉ là khách
hảo tâm quen thuộc làm công việc thiện nguyện. Mấy năm sau
thì sơ Bảy gắn đời mình với những đứa trẻ có cuộc đời
kém phần may mắn như Hậu...
Trong những dòng hồi ký mà Hậu sẽ viết, chắc chắn sẽ đậm
đà những dòng kính yêu tháng ngày bên sơ Bảy. Nhưng chính
Hậu cũng không biết sơ Bảy đến từ đâu và cuộc đời
của sơ Bảy thế nào. Hậu chỉ nghe đâu đó, sơ là con của
một gia đình quyền thế trong dòng tộc hoàng gia Thái Lan...
Đời sơ Bảy khép kín trong tu viện. Sơ chỉ chia sẻ tấm lòng
nhân ái của mình cho những mảnh đời bất hạnh, còn những
nỗi niềm riêng sơ giữ kín trong lòng...
Cô nhi viện Thiên bình một ngày trong trẻo. Những tiếng
trẻ nhỏ khóc cười làm dịu thêm cái không khí ở nơi này.
Thuyết phục đến bao nhiêu thì “dì Hai” - một sơ thường
trực ở phòng khách cũng kiên quyết không cho chúng tôi gặp
dì Bảy. Bà đưa ra lý do: dì Bảy bệnh nặng, nên việc gặp
người lạ là một điều tối kị; những nữ tu không muốn
xuất hiện trên báo chí...
Loanh quanh ở cô nhi viện thăm các em, chúng tôi gặp một người
phụ nữ đã luống tuổi với bước đi chầm chậm. Bà nhăn
nhó đưa tay nâng trán, như cố kìm lại một cơn đau đang nhói
lên trong cơ thể. Bà ân cần hỏi chúng tôi từ đâu tới. Và
bà giới thiệu, bà chính là sơ Bảy...
Dù sức khỏe không được tốt nhưng sơ vẫn lịch sự tiếp
khách. Bà cũng không ngần ngại trả lời những gì chúng tôi
hỏi. Dĩ nhiên, sự mở đầu vẫn là cái lý do sơ rời đất
nước Thái Lan đến Việt Nam...
Năm 1963, sơ Bảy đến Việt Nam để học tiếng Pháp. Cha bà
muốn bà sang nước Pháp để học, nhưng bà lại chọn Việt
Nam. Tại sao ư? Tại vì sơ mang trong mình dòng máu Việt từ bà
ngoại, và cũng tại vì ở Việt Nam có rất nhiều thầy giáo
dạy tiếng Pháp còn lại từ những năm đất nước bị
thực dân Pháp đô hộ...
Ngay từ bé, sơ Bảy đã mơ ước được giúp đỡ những người
nghèo. Học hết phổ thông, đủ điểm để được tuyển
thẳng vào đại học, bà chọn ngành y. Lựa chọn ấy cũng
từ mong ước được chữa bệnh cho dân nghèo. Những năm sinh
viên, bà đã dành tất cả thời gian vào việc học để trở
thành một bác sỹ giỏi...
Tốt nghiệp được hai tháng, bà sang Việt Nam, vừa làm vừa
học. Thời gian này bà công tác ở một bệnh viện tại Sóc
Trăng. Ngoài thời gian làm việc, bà học tiếng Pháp. Người
dạy tiếng Pháp cho bà khi đó, không ai khác chính là sơ Bề
trên hiện nay...
Thời gian đầu bà cũng chỉ nghĩ, Việt Nam chỉ là một
chặng hành trình của việc làm thiện nguyện và học tiếng
Pháp, rồi bà sẽ lại đi đến những nơi khác nữa. Nhưng
rồi một buổi tối, bà nghe tiếng khóc của trẻ sơ sinh ở
bên ngoài cổng bệnh viện. Cố lấy bình tĩnh, bà đến gần
đứa bé. Trước mắt bà là một hài nhi đang giãy giụa trong
bóng tối. Bế đứa bé lên, bà chợt giật mình vì cái lạnh
đang lấn dần lên một sinh linh bé nhỏ...
Đứa bé được chuyển đến cô nhi viện. Mọi người cảm
thấy rất bình thường, còn riêng bà vẫn chưa hết bàng hoàng
vì cảnh tượng đó. Bà ngạc nhiên hơn khi sơ Bề trên bảo
rằng, chuyện những đứa trẻ bị bỏ rơi ngoài bệnh viện
hay các tu viện là... chuyện thường.
Một tiếng khóc hoang. Thêm một tiếng khóc. Lại một tiếng
khóc nữa... Hai năm làm việc ở bệnh viện, bà đã quen với
cái cảm giác đi gom những đứa trẻ. Những đứa trẻ như
vậy cần thêm tình thương, cần sự cứu giúp. Một người
không đủ thì hai người, ba người hoặc một nhóm người. Bà
muốn mình trở thành cánh tay nâng đỡ cho những đứa trẻ
tội nghiệp. Thế là bà quyết định ở lại...
Bà gửi thư về cho gia đình, nói rất rõ về việc bà quyết
định ở lại Việt Nam và xin phép gia đình chấp thuận. Bà
không ghi rõ địa chỉ nơi bà ẩn tu, bà chỉ viết rằng, khi
bà chọn con đường này có nghĩa là sẽ biệt lập hẳn với
cuộc sống gia đình. Và từ đó, bà sẽ là một người dân
bình thường chứ không còn là một công nương trong đại gia
đình dòng dõi hoàng gia nữa...
Khi quyết định, bà cũng đã quen với cuộc sống trong cô nhi
viện. Những người trong tu viện gọi bà bằng một cái tên
thân mật “dì Bảy”. “Dì Bảy”, cũng có tên, có họ
Việt Nam đàng hoàng - Nguyễn Thị Bảy. Bà thích cái tên đó.
Cũng như bao năm, bao nhiêu người đến cô nhi viện cũng chỉ
biết đến một “dì Bảy” rất Việt Nam nhưng chắng ai
biết phía sau một tấm lòng, một con người là cả một câu
chuyện khá bí ẩn...
Năm 1970, bà chuyển lên cô nhi viện Thiên Bình. Ngoài công
việc nuôi, chăm những đứa trẻ mồ côi, những người già
neo đơn không nơi nương tựa, bà còn là một bác sĩ tận tình.
Những năm ấy, cô nhi viện chỉ có khoảng 15 đứa trẻ,
hết thảy là nam. Hậu nằm trong số đó. Trong một chẳng
đường dài của số phận, có người đã chết vì bom đạn
chiến tranh, có người định cư ở nước ngoài, cũng có người
đến khi trưởng thành, lập gia đình rồi chuyển ra ngoài
sinh sống. Những người đó bây giờ đều đã trên 40 tuổi.
Giờ nhớ lại, Hậu thầm cảm ơn cuộc đời đã cho Hậu
gặp được “dì Bảy”. Hồi nhỏ, anh hay ốm vặt. Đã có
những đêm tỉnh giấc sau một trận sốt, Hậu lờ mờ
thấy, khi thì dì ngồi đó cầu nguyện, khi thì đang chuẩn
bị thay cái khăn ướt trên trán... Anh bảo rằng, chính dì đã
cho anh hơi ấm của một người mẹ, cái mà anh đã từng nghĩ
sẽ chẳng bao giờ có được nữa khi anh lên 5 tuổi...
Trước khi giải phóng miền Nam 2 ngày, dì Bảy trở về Thái
Lan. Lúc này Hậu mới biết dì không phải là... người
Việt. Anh cảm thấy như một lần nữa trong đời mình xa
mẹ. Trong lời nguyện cầu hằng đêm, anh chỉ mong có ngày dì
Bảy sẽ trở lại...
Ngay cả bây giờ Hậu cũng không biết được sau khi rời
Việt Nam dì Bảy đã sống và làm gì ở Thái Lan. Anh không
hỏi. Dì cũng chẳng bao giờ nói. Mấy chục năm trôi qua, không
riêng gì với Hậu, dì Bảy vẫn là một ẩn số với rất
nhiều người trong cô nhi viện này...
Khi rời Việt Nam, bà đã khóc rất nhiều. Bà thương cho
những đứa trẻ, không biết chúng sẽ ra sao trong chiến
tranh, bom đạn... Bà sợ rồi đây không biết khi nào bà quay
trở lại cùng những gương mặt đã ẩn hình trong những
lời kinh đêm suốt bao năm nơi tu viện này...
Về Thái Lan, bà vẫn là tu sĩ. Sự “dứt tơ duyên” với đời
thực vẫn như xưa. Bà ít liên hệ với gia đình. Thời gian này,
bà xin làm việc ở một bệnh viện ở Băng cốc, khoa mổ
cấp cứu. Ngày bà đến bệnh viện làm việc và nghỉ lại
ở một căn phòng nhỏ dành cho nhân viên của bệnh viện,
tối bà lại đến một tu viện gần đó để cầu nguyện. Có
được bao nhiêu tiền lương bà đều dành trọn cho công
việc thiện nguyện...
Thi thoảng, bà có ghé về thăm mẹ, vội vàng một lúc lại
ra đi. Lúc bấy giờ mẹ bà đã ngoài 60 tuổi, dù rất thương
con gái nhưng mẹ vẫn tôn trọng quyết định của con.
Trong lần đi giúp đỡ người nghèo ở một hòn đảo, bà có
gặp một người quen cũ ở Sài Gòn ngày trước. Bà đã khóc
khi người quen đó cung cấp những thông tin về Cô nhi viện
Thiên Bình: Hậu vẫn còn, sơ Bề trên vẫn còn và Cô nhi
viện Thiên Bình vẫn còn. Nhưng đa số những đứa trẻ được
bà nuôi dưỡng năm xưa đều đã lập gia đình.
Bà nhớ lại: “Lúc đó tim tôi đập loạn cả lên, tay chân
cứ bủn rủn. Vậy là một tia hy vọng cho ngày gặp lại
những người thân thương trong cô nhi viện ở Việt Nam vẫn
còn”.
Một thời gian ngắn sau, bà sang Việt Nam tiếp tục làm từ
thiện tại các cô nhi viện. Gần 20 năm xa cách nhưng mọi người
vẫn nhận ra bà. Hậu lúc này đã chuyển ra ngoài, biết tin bà
trở lại anh vội vàng về tu viện. Anh không tin nổi vào
mắt mình nữa. “Vậy là dì đã trở lại. Dì trở lại
thật rồi...”.
Những năm ấy tu viện như rộng ra vì vắng hẳn tiếng khóc
cười của trẻ nhỏ, cô nhi viện tiêu điều lắm. Những khu
vườn rộng, cỏ nhiều hơn cây. Nhà nguyện cũ hoang tàn.
Những ám ảnh về các sinh linh bị bỏ rơi trước cửa tu
viện ít diễn ra như trước...
“Em sẽ trở lại đây để cùng chung tay với chị. Chắc
chắn em sẽ trở lại”- bà đã nói thế với sơ Bề trên. Và
bà đã trở lại thật. Công việc đầu tiên là bà bàn với
sơ Bề trên kêu gọi những người năm trước quay về cùng
chung tay xây dựng cô nhi viện. Hậu và một số anh em cùng
cảnh trong cô nhi viện năm xưa đã trở lại đoàn viên.
Với một số tiền nhất định, cô nhi viện mở một trại
nuôi heo. Bà nghĩ ra cách về Thái Lan mua những cây giống sang
Việt Nam ươm để bán. Thời gian này, những giống cây như
xoài Thái Lan, sầu riêng hạt lép, chôm chôm nhãn, măng cụt
Thái Lan thực sự “gây sốt” ở cô nhi viện này. Một bộ
phận khác trong cô nhi viện chuyên làm bánh để bán...
Từ những dãy nhà cũ kỹ, tiêu điều, thời gian sau cô nhi
viện như hồi sinh trở lại. Những đứa trẻ côi cút,
những người thiểu năng, những ông già, bà lão cô đơn được
đón về trong vòng tay nhân ái. Đến bây giờ, con số những
trẻ mồ côi, người cô đơn ở đây là 135 (34 người thiểu
năng, 31 người già neo đơn, còn lại là trẻ mồ côi, cơ
nhỡ).
Dì Bảy không dấu “gốc tích” của mình. Tên Thái Lan của
bà là Sumalee. Bà nội bà là con của một vị vua Thái Lan trước
đây. Gia đình có 11 người con (4 anh trai, 2 chị và 4 em).
Tất cả đều thành đạt và có chức có quyền ở Thái Lan.
Chỉ có điều khi mặc áo dòng, bà không muốn kể nhiều về
gia đình.
Từ nhỏ, bà đi học nội trú. Rồi ra trường, sang Việt Nam
sinh sống, đi tu, nên tất cả những thông tin với gia đình bên
nội của bà đã bị gián đoạn. Bố bà đã mất từ ngày bà
về Thái Lan. Còn mẹ bà, những năm sau này khi bà trở lại
Việt Nam mẹ bà có hay sang thăm và làm thiện nguyện ở cô
nhi viện này cùng con gái. Nhưng năm 1994, mẹ bà cũng đã qua
đời...
Dù chỉ ở Việt Nam với tấm giấy đăng ký tạm trú nhưng
nguyện vọng của bà sẽ ở lại đây cho đến hết đời vì
những mảnh đời bất hạnh. Hiện tại sức khỏe của bà
rất yếu: từng phải phẫu thuật cắt khối u ác tính trong
ruột; gan bị xơ; máu lên não không đều. Những chứng bệnh
này ngày càng hành hạ sức khỏe và bà đã đọc kinh cầu
nguyện hằng ngày để quên đi những cơn đau...
Chúng tôi biết, có rất nhiều bí mật nhưng bà không muốn
kể. Bí mật như cái bản di chúc bà đã soạn sẵn, chỉ
tiết lộ một thông tin nho nhỏ: tất cả những tài sản
một đời bà có được sẽ dành hết cho những con người
tội nghiệp trong Cô nhi viện Thiên Bình này...