Bé Toma Aquinas năm
tuổi, dáng người phục phịch, lặng lẽ ngồi trên lưng
ngựa với người đầy tớ. Họ đang chờ đợi giờ
khởi hành. Bé thấy nôn nao vì sắp được rời xa tòa lâu
đài xám, nơi đó, dù cha bé thống lãnh cả một vùng, nhưng
ít khi ông ở nhà; còn mẹ thì chẳng mấy khi bé được
gặp; có người chị thân nhất lớn hơn bé một tuổi thì
mới bị sét đánh chết ngay trong phòng ngủ cách đây mấy tháng!
Tôma rùng mình khi hồi tưởng trận bão ác nghiệt đó.......
Đoàn ngựa chở Tôma và ba má của bé cùng đoàn tùy tùng
chẳng mấy chốc đã vượt qua 6 dặm đường núi, tiến về
tu viện Cassinô, một tu viện danh tiếng tại Ý, mà vị Viện
Trưởng lại có họ hàng với gia đình bé. Tại đây,
sau một nghi lễ vắn tắt, bé được đón nhận và trở thành
một học sinh trường Dòng.
Tôma bắt đầu cuộc sống mới nơi đan viện không tiếng
ồn ào. Lạ lùng thay, bé chẳng thấy đơn côi, nhưng
lại tỏ ra thích thú cuộc sống thinh lặng nơi đây. Bé
yêu thích trường sở, mộ mến vẻ thân thiện của các đan
sĩ, say mê các khúc hát trầm bổng trong giờ nguyện kinh của
các thầy.
Khởi sự làm môn sinh của các thầy từ khi ê-a ba chữ A B C,
Tôma ngày càng tỏ ra thông minh sáng trí. Cuộc sống đạo
hạnh của bé phát triển không ngừng. Năm 13 tuổi Tôma
đã vượt xa các bạn đồng lứa. Cậu có một trí nhớ khác
thường, thuộc lòng toàn bộ Phúc Âm và các thư thánh Phaolô.
Cậu đã chuyển ngữ nhiều tập sách từ tiếng Latinh sang
tiếng Ý. Người ta đồn rằng, Tôma không hề quên bất
cứ điều gì cậu đã học!
Cuộc
sống trầm lặng nơi đan viện đột nhiên nổi sóng. Hoàng
đế Frederick ra lệnh chiếm cư tu viện Cassinô. Các đan
sĩ và học sinh bó buộc phải rời bỏ đan viện. Một
lần nữa, Tôma bị đặt giữa khúc quanh cuộc đời.
Năm 14 tuổi, ba má cho Tôma nhập Đại Học thành Naples với
nguyện vọng là sau cơn sóng gió, chàng có thể về lại đan
viện để trở thành một đan sĩ dòng Bênêđicto. Danh
tiếng của Tôma nổi như sóng cồn, chàng không những vượt
xa chúng bạn mà còn tỏ ra trổi vượt hơn các giáo sư cả
về kiến thức lẫn cuộc sống thánh thiện, và được
gọi là "Thiên thần của học đường". Chàng đã
trải qua 5 năm tại Đại Học thành Naples.
Trong khoảng thời gian đó, thánh Đaminh lập Dòng mới có tên
là dòng Giảng Thuyết. Các thầy thuộc dòng này chuyên
Giảng trong các đại học và giảng thuyết bất cứ nơi nào
cần đến. Không như dòng Bênêđito, các thầy Đaminh
thời đó tự đi xin ăn và đón nhận của bố thí. Mọi
người đều nghe nói đến sự thánh thiện và kiến thức sâu
rộng của các thầy. Bị thu hút mãnh liệt bởi gương lành
các tu sĩ dòng Đaminh, Tôma đã gõ cửa tu viện xin nhập dòng.
Các thầy khuyên chàng hãy chờ đợi và cầu nguyện. Chàng
nghe theo lời khuyên của các thầy, đồng thời làm bạn với
nhiều tu sĩ trong dòng. Năm 20 tuổi, Tôma tốt nhiệp đại
học, một lần nữa chàng xin nhập dòng Đaminh. Lần này
chàng đã được nhận lời. Lập tức chàng nhắn tin cho
mẹ hay. Cha chàng đã qua đời một năm trước đó.
Được tin con vào dòng Đaminh, bà Thêôđôra, mẹ chàng nổi cơn
lôi đình, bà nói:
-Đây là điều bất hạnh cho dòng họ Aquinas! Hãy tưởng
tượng xem một người con trai vương giả lại đi ăn xin và
giảng thuyết khắp đường phố như người điên! Hãy đem
ngựa cho tao! Nội đêm nay tao sẽ lôi cổ nó ra khỏi tu
viện!
Người ta báo cho Tôma biết cơn giận và âm mưu của mẹ chàng,
chàng vội vã chuyển đến một tu viện khác tại Rôma.
Nhưng bà Thêôđôra phóng ngựa đuổi theo. bất chấp
những gì xẩy đến, Tôma phải vâng lời bà! Bà quên rằng
Thánh Ý Chúa còn vượt trên ý định của bà. Gõ cửa
tu viện ở Rôma, bà ra lệnh phải đem Tôma ra ngoài! Nhưng
thầy giữ cửa cho biết Tôma đã rời khỏi tu viện sáng
nay cùng với một số thầy. Lập tức bà sai người đưa
tin cho các anh của Tôma đang đi lính đóng tại làng gần đó,
phải tìm mọi cách bắt Tôma đưa về nhà.
Khoảng giữa trưa, Tôma cùng với nhóm các thầy đang ngồi
nghỉ bên bờ giếng, thình lình một toán kỵ mã do các anh
của Tôma dẫn đầu xông vào bắt chàng, rồi lôi chàng lên lưng
ngựa và đem về lâu đài của gia đình. Tại đây, mẹ chàng
đã giam chàng trong một pháo đài, cửa sẽ khóa kín cho tới
khi chàng hứa vâng lời bà. Bà không thèm để ý đến Thánh
Ý Chúa và tuổi tác của con bà.
Tôma nhìn quanh khu pháo đài bằng đá vắng lạnh đang giam hãm
chàng: góc bên này là chiếc giường ngủ, bên kia là một
chiếc bàn và chiếc ghế ọp ẹp. Quang cảnh thật
trống vắng! Nhưng chàng lại thích bầu khí thinh lặng! Chàng
biết rằng chàng không đơn côi một mình, nhưng có Chúa
hằng ở bên chàng. Không có việc gì làm, chàng bắt đầu
truyện vãn với Chúa bằng những lời cầu nguyện ....
Người duy nhất được phép đến thăm tôma là Marotta, em
của chàng, một cô gái mang nặng đầu óc trần tục. Nàng
cố gắng dùng mọi lý lẽ thuyết phục Tôma phải vâng lời
mẹ. Để cho cô em thuyết chán, Tôma mới bắt đầu nói
cho nàng nghe về tình thương bao la của Chúa đối với nàng.
Chàng khéo nói đến nỗi chỉ sau đó ít ngày, Marotta đã đi
đến quyết định chính nàng cũng sẽ dâng đời mình phụng
sự Chúa. Thế rồi nàng tìm cách giúp đỡ Tôma những gì có
thể, và lén lút đem cho chàng sách vở cùng những vật dụng
chàng cần đến.
Thế là Tôma chia thời giờ ra để học hành, viết sách, và
cầu nguyện. Ý chí của chàng còn sắt đá hơn cả ý
muốn của mẹ chàng, tưởng chừng chàng có thể vĩnh viễn
sống cuộc đời giam hãm tại pháo đài, nếu Ý Chúa muốn như
thế. Mẹ và các anh của chàng dùng đủ mọi mánh khóe
để chàng bỏ ý định tu dòng Đaminh. Một đêm, họ
dẫn vào cho Tôma một cô gái trẻ đẹp, với mục đích dùng
nàng để quyến dũ Tôma phạm tội. Không chút lưỡng lự, chàng
liền rút que củi cháy đỏ trong lò sưởi, xua đuổi người
con gái ra ngoài.
Đằng đẵng hai năm dài, Tôma bị giam hãm trong pháo đài.
Đã đến lúc Giáo Hội phải can thiệp. Bà Thêôđôra
được biết bà sẽ bị dứt phép thông công với Giáo Hội
nếu bà không trả tự do cho con bà.... Thế rồi, một
buổi sáng, Tôma thấy cửa pháo đài bỏ ngỏ, chàng lẹ chân
trốn khỏi pháo đài trở về tu viện. Chàng và mọi người
quen biết lòng phấn khởi mừng vui. Từ nay chàng được
tự do phụng sự Chúa trong dòng Đaminh. Mọi người đều
tỏ lòng kính yêu Tôma, một thầy dòng trẻ mập mạp, ít nói,
nhưng chiếu tỏa sự thánh thiện.
Thầy được cử đi học Đại Học Paris dưới sự chỉ giáo
của vị giáo sư danh tiếng, sau này trở thành thánh Anbêtô
Cả. Không một giáo sư hay sinh viên nào trong trường này
quen biết Tôma khi người sinh viên mới, với dáng người
nặng nề, trầm lặng này bước chân vào lớp. Sau vài
ngày, họ tự hỏi nhau tại sao và tranh luận sôi nổi.
Một sinh viên lên tiếng hỏi:
-Anh chàng đó là ai vậy? Một người nhanh nhẩu trả lời:
-Một con bò câm!
Mọi người phá lên cười.
Tuy nhiên, Giáo sư Anbêtô sớm khám phá ra sự khôn ngoan, thông
sáng của "Con Bò Câm". Một hôm bị giáo sư công khai
sát hạch Tôma giữa lớp. Tôma trả lời cách hết sức
thông minh, đến nỗi giáo sư Anbêtô phải lưu ý cả lớp:
-Các bạn gọi thầy Tôma là "Con Bò Câm", nhưng các
bạn lên nhớ tiếng rống của "Con Bò Câm" này sẽ
vang dội khắp thế giới!
Trước những sự kiện đó, Tôma chỉ mỉm cười. Thầy
không màng để ý đến cái tên riêng họ đặt cho thầy.
Chẳng bao lâu, Tôma được thụ phong Linh Mục. Cha tăng gấp
đôi giờ cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Cha
giảng thuyết, dậy học và viết sách. Trong cố gắng
trả lời câu nghi vấn đã ám ảnh Tôma từ hồi thơ ấu
"Thiên Chúa là gì?", Cha đã viết hết pho sách này đến
pho sách khác. Và từ đó, cha trở thành một nhà tư tưởng
trứ danh của mọi thời đại. Mỗi lần Tôma không
thỏa mãn với những điềi cha viết, hoặc phải giải quyết
những vấn nạn " hóc búa", cha đều đến với Chúa
Giêsu Thánh Thể và cầu nguyện lâu giờ.
Một lần đang khi cha Tôma quì cầu nguyện trước bàn thờ,
thình lình ngài nghe tiếng Chúa phán từ tượng chịu nạn:
-Tôma, con đã viết rất khéo về Cha! Con muốn Cha thưởng gì
cho con?
Lập tức cha Tôma trả lời:
-Lậy Chúa, ngoài Chúa ra, con chẳng muốn điều gì khác!
Thế rồi, một ngày kia Tôma đột nhiên ngừng viết, mặc
dầu ngài chưa hoàn tất tác phẩm nổi tiếng của ngài.
Khi được hỏi lý do, cha Tôma trả lời:
-Mọi điều tôi viết chỉ là không, so với những gì đã
được mạc khải cho tôi!
Cha Tôma qua đời năm 1274, khi Ngài mới được 49 tuổi.
Không đầy 50 năm sau, Ngài được tôn vinh trên bàn thờ.
Do các tác phẩm nổi tiềng của ngài, thánh Tôma được trao
tặng danh hiệu " Tiến Sĩ Hội Thánh". Do sự trinh
trong của ngài, thánh Tôma được gọi là " Tiến Sĩ Thiên
Thần". Do các giáo thuyết của Ngài, thánh Tôma được tôn
phong là "Thánh Sư các Trường Công Giáo". Tiếng
rống của "Con Bò Câm" đã thực sự vang dội
khắp thế giới. Hàng năm, Giáo Hội mừng kính Ngài vào
ngày 28 tháng Giêng.