|
|
Chị
Ðáng Kính
Maria
Têrêxa Giêsu Quevedo
"Tôi
phải trở nên một vị thánh", và phải nên thánh
thật mau.
(1930-1950)
Maria Têrêxa Quevedo
mở mắt chào đời ngày 14 tháng 4 năm 1930, một năm trước
ngày chế độ quân chủ Tây Ban Nha sụp đổ. Maria là
người con thứ ba của bác sĩ Calixto Quevedo. Trong ngày
lãnh phép Thánh Tẩy, bé được đặt tên là Maria Têrêxa
Giosephina Giustina Gonzalez Quevedo y Cadarso, có ý kính nhớ
các vị Thánh Têrêxa, Giuse, Giustin và Đức Trinh Nữ
Maria. Ngay từ nhỏ, bé đã được gọi là Têrêsita, nhưng
trong suốt cuộc đời của bé, bé hằng cố gắng
sống theo khuôn mẫu của Đức Trinh Nữ Maria.
Lúc mới được 13 tuổi, Têrêsita đã tận hiến mình
cho Đức Mẹ theo mẫu của Thánh Luy Mông-pho. Từ ngày
đó, khẩu hiệu của Têrêsita là "Lạy Mẹ, xin hãy
làm cho mọi người nhìn thấy Mẹ trong con". Một
lần kia, Têrêsita đã bày tỏ lòng kính mến Mẹ của
mình cho người em họ như sau: "Chị yêu mến Thiên
Chúa hết lòng. Nhưng Người muốn cho chị yêu mến
Mẹ cách đặc biệt và đến với Chúa dưới sự dìu
dắt của bàn tay từ mẫu của Mẹ".
Trong một lá thư gửi cho một người chị dâu, mẹ
của Têrêsita đã viết cảm tưởng sau đây về ba người
con của bà: "Luy xem giống như một dũng tướng,
Conchita thì âm thầm và rất biết điều... Têrêsita thì
tràn đầy niềm vui. Mọi người thương mến nó ... nó
đẹp như một bức tranh, nhưng thật là rắn mặt. Có
lẽ chúng em đã quá nuông con vì nó là út. Không gì có
thể làm nó thay đổi ý khi nó đã quyết điều gì.
Chắc chúng em phải tìm cách trị nó mới được".
"No me gusta!" (con không thích!) là câu mọi người
thường nghe thấy bé nói. Cái tính kén ăn đã nhiều
lần khiến em nổi cơn tam bành. Têrêsita vẫn còn nhớ
mãi những kỷ niệm đó: "Sau những lần nổi khùng
đó, điều này đã xảy ra nhiều lần trước khi tôi Rước
Lễ Lần Đầu, dì tôi thường chờ đợi dấu hối
lỗi đầu tiên của tôi. Tôi không bao giờ mở miệng
xin lỗi vì quá xấu hổ. Thật ra dì có lòng nhẫn
nại và nhân từ lạ thường. Dì không bao giờ nói
một lời nào về những tính xấu của tôi, dù với tôi
hay với ba má của tôi. Thái độ đó của dì đã dạy
tôi nhiều bài học, đặc biệt là bài học kiên nhẫn
và hối lỗi. Trong im lặng, dì đã bắt tôi phải tự
xấu hổ vì những hành vi của mình".
Chẳng bao lâu sau, cô bé vui tươi nhưng cứng đầu này
đã tập được tính tự chủ. Sau khi Rước Lễ Lần
Đầu, ông Quevedo đã nhận thấy nơi con mình có một
sự đổi thay khác thường. Ông đã viết cho một người
anh rằng, "Cái sức mạnh vô song khiến nó có thể
vượt thắng được tính nóng nảy của nó đã làm tôi
thật cảm động".
Sau này, qua cha giải tội và những trang nhật ký Têrêsita
để lại, người ta thấy khi đó em cũng tìm được
một sự phù trợ khác để giúp em tự chủ: đó chính
là lòng yêu mến Mẹ Maria. Mỗi lần Têrêsita thắng
được mình để ăn những thứ không thích, hay mỗi
lần có thể bỏ ý riêng, em âm thầm kể đó là một
món quà nhỏ dâng kính Đức Mẹ.
Trong thời gian nội chiến ở Tây Ban Nha, gia đình ông
Quevedo phải sống ở nhiều nơi xa thủ đô Madrid. Khi
đang sống tại một làng đánh cá, người nấu bếp
một hôm thấy bánh mì và bánh ngọt đột nhiên biến
mất. Chị của Têrêsita sau này đã thú nhận là Têrêsita
đã lấy đem cho các trẻ em nghèo. Đối với những
trẻ em nghèo này, các của ăn được coi là bình thường
trong gia đình ông Quevedo lại là những của ăn quí báu
đối với chúng.
Sau thời gian chiến tranh, gia đình Têrêsita đã trở
về Madrid. Tại đây chị em Têrêsita đã theo học tại
trường Đức Mẹ Núi Carmêlô. Em siêng năng học hành
và cũng được điểm tốt, nhưng cũng không thiếu
những hành vi tinh nghịch của tuổi học trò. Mỗi ngày
đều có một quãng thời gian để các học sinh làm
những việc chân tay trong thinh lặng. Một lần nọ,
trong khi đan một chiếc khăn bàn, Têrêsita và người
chị em họ là Angelina đã vui vẻ chuyện trò bất
chấp lúc đó là giờ cấm nói chuyện. Không những
thế, Angelina còn ngồi không, chẳng chịu làm việc. Đột
nhiên hai cô bé nghe thấy tiếng chân của bà sơ đang bước
tới. Nhờ lanh trí, Têrêsita đã quàng chiếc khăn bàn
lên người Angelina rồi giả bộ như đang chăm chỉ làm
việc. Trong khi đi ngang qua, sơ đã mỉm cười và gật
đầu một cái tỏ vẻ rất hài lòng.
Têrêsita không thích sách vở cho lắm, và em hằng ước
ao giá được đi học mà không phải đọc sách thì hay
biết mấy. Trong những giờ học tư, Têrêsita thích
ngồi vẽ hay viết lung tung thay vì làm những bài thầy
giáo đã ra. Dù vậy, các thầy cô đều hài lòng về
em. Hơn nữa, nhờ tính tình vui vẻ, em được nhiều
học sinh quý mến. Họ đã bầu em là người ăn vận
đẹp nhất, chọn em làm chủ tịch hội tôn giáo, và
thủ quân đội bóng rổ đã thắng vô địch vào năm
1947. Têrêsita cũng có nhiều niềm vui như mọi cô gái
Tây Ban Nha bình thường khác, trong đó có ca vũ và coi
đấu bò.
Hằng năm, các nữ sinh đã lớn tuổi phải dự một
cuộc tĩnh tâm. Năm Têrêsita được 11 tuổi, dù chưa
đủ tuổi, em cũng đã xin được phép đặc biệt để
tham dự. Trong khi tĩnh tâm, mỗi người có một cuốn
sổ nhỏ để ghi chép những điều đáng nhớ qua các
giờ huấn đức hoặc hội thảo. Tuy Têrêsita không
thể hiểu hết mọi điều, nhưng có một điều vị
linh mục hướng dẫn trình bày mà em hiểu rất mau, đó
là phải có một quyết định về hướng đi cho đời
mình. Sau này, người ta đã đọc được điều quyết
định của Têrêsita trong kỳ tĩnh tâm ấy: "Tôi
phải trở nên một vị thánh".
Con đường Têrêsita đi để thực hiện điều quyết
định nói trên đã đòi Têrêsita phải dùng đến ý chí
mạnh mẽ để vượt thắng các trở ngại. Nhưng dù
sao, giữa những khốn khó đó em luôn có Mẹ Maria, vì
chính Mẹ là vị đồng hành và hướng dẫn em trong
mọi bước đi của cuộc đời. Như Thánh nữ thành
Lisieux, em đã hiểu được rằng những hy sinh, dù nhỏ
bé đến đâu, cũng rất đẹp lòng Chúa.
Têrêsita rất thích chơi quần vợt, nhưng dù cố gắng
đến mấy cũng chỉ đoạt được hạng nhì. Đến năm
lớp 12, Têrêsita chơi giỏi đến nỗi mọi người đều
nghĩ rằng cô sẽ thắng giải vô địch lần này. Sau
trận đấu, Têrêsita trở về nhà với nét mặt thật
hân hoan, đến nỗi bà thân mẫu đã nghĩ gia đình bà
lại có thêm một người vô địch quần vợt. Khi được
mẹ hỏi, Têrêsita đã thưa với mẹ: "Nếu mẹ coi
đây là chiến thắng về phần siêu nhiên thì con đã
đoạt được giải vô địch; nhưng không phải là vô
địch quần vợt đâu, mẹ à!"
Sau đó, Têrêsita kể cho mẹ rằng trước giờ đấu,
một cô bạn đã nói đùa là cô ta định mua một vương
miện lớn hơn cho người vô địch, vì sau khi chiến
thắng, chắc đầu của Têrêsita sẽ phồng to hơn thường.
Dù đó chỉ là câu nói đùa, nhưng cũng đã khiến cho
Têrêsita suy nghĩ... Khéo mà ước vọng muốn làm vô địch
chỉ là hư danh? Vì nghĩ thế, nên Têrêsita liền xin Đức
Mẹ định liệu sao cho Chúa được hài lòng. Trong
trận đấu, tuy Têrêsita đã cố gắng hết sức, nhưng
sau cùng vẫn thua. Trên đường về nhà, cô đã vào
viếng nhà thờ và thân thưa với Đức Mẹ là cô đã
hiểu quyết định của Đức Mẹ. Lúc đến cửa nhà
thờ, Têrêsita thấy một bà già đang ăn xin tại cửa
nhà thờ, cô đã biếu bà ít tiền. Đáp lại, bà đã
trao cho Têrêsita một mảnh giấy. Cô nhận lấy mảnh
giấy, rồi tiến đến trước toà Đức Mẹ. Trong lúc
cô quỳ cầu nguyện, miếng giấy rơi xuống đất. Nhìn
xuống, Têrêsita không thấy có hình gì hết, nhưng trên
đó có viết một câu: "Tình yêu làm cho mọi sự
trở nên dễ dàng".
Một trong các bạn thân của Têrêsita còn nhớ những
buổi liên hoan có Têrêsita tham dự. Cô ấy nói:
"Ai cũng bu quanh Têrêsita, nhất là các chàng trai, vì
lời nói của chị ấy thật hấp dẫn. Têrêsita quý
mến mọi người, và thích dự các buổi liên hoan... Tôi
không thấy chị ấy bỏ một buổi nào cả".
Đến năm 1947, với sự đồng ý của cha giải tội, Têrêsita
đã xin Mẹ Bề trên Dòng Carmêlô Bác Ái cho mình nhập
Dòng. Trong khi phỏng vấn, Têrêsita đã nêu thắc mắc:
"Liệu con có được đi truyền giáo tại Trung Hoa
không?" Mẹ Bề trên vừa cười vừa đáp, "Thì
cũng được chứ sao; nhưng trước hết phải vào Nhà
Tập cái đã". Trong cả đời cô, việc gì Têrêsita
cũng muốn làm cho nhanh cho chóng. Nhiều lần ông thân
sinh của Têrêsita phải giới hạn việc để con gái ông
lái xe, vì ông cho là cô lái xe quá nhanh. Nhiều lần khác,
cô đã hỏi bà dì là làm sao để chóng trở nên một
vị thánh.
Trong suốt thời gian thử và tập sống đời tu trì, Têrêsita
luôn cố gắng để vượt thắng các tính mê nết
xấu, cho dù nhỏ mọn đến đâu. Têrêsita là người
luôn cố gắng cầm trí trong các giờ cầu nguyện và
sẵn sàng làm việc bác ái giúp đỡ chị em đồng tu.
Ngày trước khi vào dòng, Têrêsita đã tập sự cầm trí
trong các giờ cầu nguyện. Một bà giáo của chị, Sơ
Ramona, một hôm để thử xem Têrêsita cầm trí đến
mức nào, Sơ đã đến quỳ bên cạnh Têrêsita 10 phút
đồng hồ trong khi chị đọc kinh Mân Côi. Đến chiều
hôm đó, Sơ đã hỏi Têrêsita, "Con có biết Sơ nào
quỳ bên con trong giờ cầu nguyện sau bữa cơm trưa nay
không?" Têrêsita đã trả lời, "Thưa Sơ,
đâu có ai quỳ bên con trong khi con đọc kinh Mân Côi đâu.
Hay ít ra, con không nhớ có ai hết".
Từ ngày vào Dòng, Têrêsita được nhận tên mới là Sơ
Maria Têrêxa. Chị không ước ao gì hơn là có Mẹ Maria
ở bên mình trên mọi bước đường.
Đến tháng 5 năm 1949, Chị đã mắc phải chứng bệnh
phổi. Thế là ông thân sinh của Chị đến nhà dòng
xin Bề trên cho phép đem con về nhà chữa trị. Bề trên
quyết định là nên để chờ vài ngày. Vài ngày sau,
sau khi đã tiêm vài mũi streptomycin, Têrêsita xem ra đã
khoẻ lại. Chị được ở lại để tiếp tục thời
gian tập.
Vào mùa Vọng năm đó, trong khi một số tập sinh đang
bàn về Năm Thánh sắp tới (1950) và Đức Thánh Cha có
ý định sẽ tuyên bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên
Trời, Têrêsita chia sẻ là Chị cảm thấy sẽ được
một ơn đặc biệt trong Năm Thánh. Khi được gạn
hỏi, Têrêsita đã thú thật rằng Chị nghĩ mình sẽ
được mừng ngày tuyên bố tín điều đó ở trên Thiên
Đàng. Có mấy người cười, có người phản đối, không
ai muốn tin điều đó. Têrêsita đã trả lời, "Các
chị cứ cười đi; rồi đây sẽ biết. Tất cả các
chị sẽ hát lễ mồ cho em trước khi hết năm 1950. Em
biết em sẽ được ở với Đức Mẹ trong ngày huy hoàng
đó của Mẹ. Các chị có thể tưởng tượng được
không, trên Thiên Đàng sẽ như thế nào khi tín điều
Đức Mẹ Lên Trời được tuyên bố?"
Đến cuối tháng Giêng năm 1950, bác sĩ Quevedo đã được
gọi đến để khám xem tại sao Têrêsita bị đau đầu
và đau lưng dữ dừng quá đến thế. Bác sĩ đã đau
khổ khi tỏ cho Mẹ Bề trên biết là có lẽ Têrêsita
bị viêm màng phổi. Têrêsita sẽ chỉ sống thêm được
vài tháng nữa là cùng. Theo tự nhiên, ông muốn đem
con gái ông về với gia đình, nhưng ông biết rằng con
ông sẽ hạnh phúc hơn nếu được chết trong nhà Chúa.
Vì thế, ông đã quyết định xin cho Têrêsita được
ở lại nhà dòng. Trong khi ông sắp ngỏ lời, thì Mẹ
Bề trên đã mở lời trước: Mẹ xin ông đừng đem Têrêsita
về nhà nữa.
Dù chưa mãn hạn tập, Chị Têrêsita cũng được tuyên
khấn như một nữ tu. Chị cũng được lãnh Bí tích
Xức dầu thánh, vì ông thân sinh của Chị sợ trí óc
của Chị sẽ không còn tỉnh táo nữa. Thực ra, dù đôi
khi tâm trí có bị sa sút, nhưng cho đến lúc chết, không
lúc nào Chị Têrêsita mất khả năng sử dụng lý trí.
Cả nhà dòng bắt đầu cầu nguyện để xin một phép
lạ. Khi được hỏi tại sao Chị lại vội vã về Thiên
Đàng như thế, Têrêsita đã trả lời, "Trên Thiên
Đàng, không gì sẽ phân rẽ em ra khỏi Chúa Giêsu và
Mẹ Maria. Vả lại, ở đây em thật là vô dụng; trên
Thiên Đàng các chị sẽ thấy em thật bận bịu".
Têrêsita đã phải trải qua ba tháng thật đau đớn.
Chỉ có một cách có thể giảm bớt những cơn nhức
đầu kinh khủng là rút nước từ tuỷ sống ra. Bác sĩ
phải đâm kim vào xương sống tới 64 lần để rút nước.
Giữa những cơn đau đớn đó, Têrêsita vẫn luôn sẵn
sàng chấp nhận không một lời than vãn.
Sau cùng, Tuần Thánh năm 1950 đã tới. Trong ngày thứ
Hai, Têrêsita cảm thấy thật đau đớn. Đến thứ Ba và
thứ Tư thì bắt đầu hôn mê. Đến thứ Năm thì Chị
lại cảm thấy khá hơn, nên đã xin một chút đồ ăn
vào bữa trưa. Đến chiều cơn đau đầu lại hoành hành.
Dù nửa tỉnh nửa mê, Chị không muốn rút nước trong
xương sống ra nữa, cho dù làm như thế sẽ bớt đau
đớn đôi chút. Đến ngày thứ Bảy, cả nhà dòng hát
những kinh nguyện cầu cho người đang hấp hối. Khi
mọi người hát tới câu "Xin hãy cầu cho Têrêsita",
thì với giọng thật yếu ớt, Chị đã đáp lại,
"Xin cầu cho em!"
Đến khoảng 11 giờ đêm, Têrêsita đột nhiên mỉm cười
rồi reo lên: "A, Mẹ Maria! Mẹ thật là diễm
lệ!" Các chị Dòng nhìn nhau tự hỏi, không
biết có phải Têrêsita thực sự được nhìn thấy Đức
Mẹ hay không. Sau đó, Têrêsita đã êm ái trút hơi
thở cuối cùng lúc mới 19 xuân xanh.
Trước khi Têrêsita qua đời, ông thân sinh là bác sĩ
Quevedo đã xin Chị cầu nguyện cho bà thân mẫu của
Chị, tại bà quá đau khổ vì cơn bệnh của con gái cưng.
Têrêsita đã hứa với ba, việc làm đầu tiên của
Chị ở trên Thiên Đàng sẽ là xin Chúa ban cho mẹ được
vâng theo Thánh Ý Chúa. Têrêsita đã thực hiện lời
hứa đó, vì từ lúc bà Quevedo được tin con gái qua đời,
bà đã hoàn toàn tuân theo Thánh Ý Chúa.
Cuộc điều tra về đời sống và nhân đức của Têrêsita
đã được bắt đầu vào Năm Thánh Mẫu 1954. Đến năm
1959, án phong chân phước đã được chuyển về Thánh
Bộ tại Rôma, và sắc lệnh xác nhận án đó đã được
công bố vào năm 1971. Têrêsita đã được nâng lên
bậc Đáng Kính, và án phong chân phước cho Chị sắp
được hoàn tất.
Xin Chị Têrêsita giữ lời đã hứa trước khi lìa
trần, là sẽ không nghỉ ngơi khi đã về Trời. Xin
Chị giúp các bạn trẻ tìm gặp được Chúa là Tình Yêu
tuyệt đối, và cũng giúp họ biết chạy đến với
Mẹ Maria, để Mẹ dạy cho họ biết sống trong sạch
như Mẹ, theo lý tưởng Kitô giáo.
|