Các thánh tử
đạo là ai? Có phải là những anh hùng hiển hách như người
ta thường nói hay không? Nếu là anh hùng thì phải hiểu anh hùng
như thế nào?
Xin mời đọc
qua lược sử vài vị sau đây.
1. Thánh Phaolô
HẠNH (1827-18559)
Thánh Phaolô
Hạnh là một giáo dân. Người sinh ở Biên Hoà năm 1827, lên
Chợ Quán, Sài Gòn buôn bán, làm ăn, giao du với một nhóm
những tay anh chị chuyên lường gạt, bắt chẹt kẻ cô thế
cô thân. Hình như có thời đã từng cầm đầu một băng cướp.
Thế nhưng
những lời Tin Mừng đã nhận đuợc thời thơ ấu vẫn âm
ỉ sống trong lòng.
Lần kia, khi
chứng kiến một thiếu phụ nghèo khổ bị đàn em bóc lột
không thương tiếc, anh bổng xúc động và ra tay can thiệp…
Làm thế, anh
bị đám người kia căm tức, trả thù. Họ tố cáo anh là người
có đạo và tiếp tay cho quân Pháp. Trước toà, anh nhất định
không nhận tội phản quốc nhưng không chối mình là người
công giáo. Bởi thế, anh bị trảm quyết ngày 28.5.1859 tại Chí
Hoà, vào lúc mới 32 tuổi.
2. Thánh Micae
Hồ Ðình Hy (1808-1857).
Hồ Ðình Hy
sinh tại Huế và làm quan thời Tự Ðức. Sống trong giới
quan lại, ông đã chịu ảnh hưởng nhiều tật xấu và sa ngã
đôi phen; đã sống ngoại hôn với một thiếu nữ trẻ và có
với người ấy ba đứa con. Nhưng sau đó ông đã hồi tâm và
làm việc lành để chuộc lại lỗi lầm.
Cuối năm 1856
ông bị bắt. Ông cương quyết không bỏ đạo. Nhưng lần kia
bị tra tấn quá đau, ông đã lỡ lời tố giác một số tín
hữu khác. Thật ra trong bụng ông nghĩ rằng những người này
đã trốn đi nơi khác rồi, không ngờ người ta dựa theo
lời ông và tìm bắt được 29 người đồng đạo. Trong số
này, có 8 người bỏ đạo, còn 21 người khác thì cương
quyết trung thành với đức tin cho tới cùng.
Nghĩ rằng
tại mình mà một số đồng đạo bị bắt, ông rất hối
hận, cầu xin Chúa thương tha thứ và kiên quyết dùng máu mình
rửa sạch lỗi lầm.
Thánh Micae Hồ
Ðình Hy bị chém đầu ngày 21.5.1857.
3. Ba thánh quân
nhân.
Năm 1839 Tổng
đốc Nam Ðịnh là Trịnh Quang Khanh bị triệu về kinh và bị
khiển trách vì lơ là thi hành chiếu chỉ bắt đạo của nhà
vua. Từ đó ông trở thành tay bắt bớ người công giáo khét
tiếng. Ông ta tổ chức một đại tiệc chiêu đãi các binh sĩ
công giáo ở Nam Ðịnh. Có khoảng 500 người tới dự. Trong
bữa tiệc ông đưa ra lời hứa hẹn sẽ ban thưởng cho
những ai trung thành với nhà vua. Ông cũng khéo léo ngăm đe
những ai không chịu bỏ đạo. Sau bữa tiệc ông cho mời
tất cả vào tư dinh để thử lòng. Tại đây ông đã để
sẵn những dụng cụ tra tấn như gông cùm, xiềng xích, roi, kìm
v.v. và đặt ảnh thập giá dưới đất. Tất cả được tự
do chọn: hoặc bước qua thập giá hoặc chịu gia hình, tùy ý.
Trong số 500
binh sĩ chỉ có 15 người trung kiên. Họ bị bỏ tù, rồi ngày
hôm sau bị điệu ra công đường chịu đánh đòn. Sáu người
bỏ cuộc, còn lại 9. Ba ngày sau những người này lại bị
đưa ra công đường tra tấn. Lại 4 nguời bỏ cuộc. Một
cuộc tra tấn dã man thứ ba làm 2 người chối đạo. Ba
nguời còn lại là: Aâu Tinh Phan Viết Huy (1795-1839), Nicola Bùi
Ðức Thể (1792-1839), Ða Minh Ðinh Ðạt (1803-1839). Nhưng cuối
cùng thì cả ba người này nữa cũng chối đạo và được
trả tự do.
Song về nhà, các
ông ray rứt vì đã đạp lên tượng thánh giá Chúa. Họ bàn
với nhau đi xưng tội rồi cương quyết lên gặp quan Tổng đốc
để xin chuộc tội. Ông này muốn bỏ qua (dĩ nhiên để bảo
toàn thành tích), nên cho họ về. Nhưng các ông vẫn không yên
lòng. Họ bàn với nhau làm đơn nộp lên vua Minh Mạng. Hai ông
Huy và Thể khăn gói đi vào Huế, còn ông Ðạt thì ký tên vào
đơn nhưng vì bận công tác với đội binh nên ở lại.
Nhân một dịp
vua Minh Mạng ngự giá đi dạo trong thành phố, các ông Huy và
Thể đã đón đường trình đơn lên thẳng nhà vua. Ðọc
xong, vua nội giận, truyền tống giam và xét xử. Ngày
13.6.1839 hai ông bị chặt đầu ném thây xuống biển. Ở nhà,
ông Ðạt nghe tin cũng sẵn sành chờ lính tới bắt. Ông được
đưa lên Nam Ðịnh. Tổng đốc Nam Ðịnh lập án gởi về
kinh xin xử giảo. Ngày 18.7.1839 lý hình xiết cổ ông cho đến
tắt thở.
Kết Luận.
Qua vài câu
chuyện trên, chúng ta thấy các thánh tử đạo thật gần gũi
với chúng ta. Không chỉ có mấy vị đơn cử trên đây, mà
tất cả các vị khác cũng chỉ là những con người bình thường
như mọi người, cũng thích sống sợ chết, yếu đuối mỏng
dòn, lắm khi đầy thói hư tật xấu. Nhưng ân sủng của Chúa
đã là sức mạnh của các ngài.
Chúng ta cũng
thấy rằng, cả những người sa ngã nặng nề cũng chưa hẳn
là đã hoàn toàn hư hỏng, đáng "bỏ đi". Tội về
mặt này mặt kia, nhưng vẫn còn những điều tốt trong ho. Có
những ngừơi sống bê tha hoặc rối rắm nhưng điều đó không
hẳn có nghĩa là họ đã bỏ Chúa, chối đức tin. Ơn Chúa và
một chút thiện chí cá nhân có thể thổi bùng lên ngọn
lửa từ chút than đỏ mỏng manh âm ỉ dưới đám tro nguội.
Chúng ta quen nói:
các anh hùng tử đạo để tôn vinh các thánh, nhưng xét cho
kỹ thì kiểu nói đó là sai, hoặc ít nhất là sai nếu chúng
ta hiểu "anh hùng" theo kiểu trần thế. Không ai làm
thánh chỉ nhờ nổ lực, nhờ rèn luyện, nhờ ý chí hay khí
phách. Các thánh tử đạo thật là hiển hách nhưng cái hiển
hách đó là do ân huệ Chúa thương ban. Vì thế Phụng vụ
mới nói: khi tôn vinh các thánh là chúng ta tôn vinh Thiên Chúa.