|
| |
Tự
do & giới hạn
Mình
thích tự do nhưng mình lại dễ cưỡng bức người khác làm
theo ý mình. Con người không thông cảm vì người cưỡng
bức người. Sự cưỡng bức này truyền từ đời cha sang đời
con, đời ông sang đời cháu. Nó ăn sâu trong xương tủy,
tới mức biến thành tiềm thức, rồi người này cưỡng
bức người kia mà vốn lầm tưởng rằng mình đang kính
trọng nhau. Nguyên nhân gây ra cưỡng bức là vì muốn
tỏ ra mình quan trọng, có uy quyền, hay vì muốn thủ lợi riêng
tư. Kết quả của cưỡng bức, của đàn áp tự do, là muốn
người thương yêu phục vụ mình, nhưng mình lại cắt đứt
nhịp cầu thương yêu phục vụ này.
Nhịp
cầu thương yêu phục vụ chính là sự kính trọng tự
do của nhau, với lương tâm chịu trách nhiệm về việc
mình làm. Trong ba phần của nghệ thuật cảm thông là lý trí,
tình cảm, và tự do. Ở đây chỉ xin đề cập đến phần
tự do.
Bàn
đến tự do là bàn đến muôn hình vạn trạng của đời
sống con người, như tự do suy nghĩ, tự do để râu tóc dài
ngang vai, tự do đi câu, tự do ngồi yên trong thánh đường,
v.v. Rồi “tự do” trả nợ, tự do mang thai vì anh cho thai mà
không cho tình. Bài này nhìn vào những việc cụ thể nơi mình,
như chiều nay định nghe nhạc trong nhà, hay định hóng mát
ngoài công viên? Hoặc đi thăm người yêu, hoặc đi mua thuốc
cảm sốt cho con? Hay “việc đâu sẽ còn đó”, lo quá hoá
điên, nên cần... xả láng một ngày cho nhẹ mình? Qua những
việc cụ thể này, tự do của tôi thuộc những lãnh vực nào?
Làm sao để tôi “chết vui” chứ không “chết buồn”?
I.
Lòa thì Vui, sáng thì Lo
-
Chào minh tinh màn bạc Hollywood!
Anh
Đ. dìu chị C. vào phòng họp giữa tiếng tíu tít của các
anh chị cùng đi giúp khoá Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình. Cách
đây ít lâu, chị C. bị cảm nặng, các bác sĩ bảo những trường
hợp như vậy, đa số đều chết. Chị C. không chết, nhưng
người sưng phù, rồi tóc rụng và đầu sần sùi, rồi toàn
thân lột hết da, kể cả da đầu, da trong miệng, trong mắt.
Sau mấy tháng, chị ra khỏi nhà thương, nhưng da non mỏng như
da người bị phỏng nước sôi mà nay bắt đầu lành, đụng
mạnh là bật máu tươi. Vì da trong mắt cũng bị lột nên
sừa sưng vừa mù loà.
Nếu
nghe ai bảo mình “mù” trước khi mắt bị hư, thì chị C.
ngượng ngùng, vì không biết người nói ám chỉ gì. Nay chị
thấy mình tự do, vượt lên trên những lo toan mà khi xưa
chị cho là dĩ nhiên phải có, thí dụ: “Dĩ nhiên” phải tô
thêm chút phấn khi ra ngoài. “Dĩ nhiên” phải lựa mầu áo
tươi sáng khi đi ăn cưới; còn khi đi đọc kinh lễ giỗ thì
“dĩ nhiên” phải mặc đồ đậm nghiêm trang. Nếu ai chào
nửa đùa nửa thật như trên, thì “dĩ nhiên” phải tìm cho
ra nhẽ. Nay bình tâm suy nghĩ lại, chị mỉm cười sung sướng,
vì chị thoát ra ngoài vòng gò bó của những cái “dĩ nhiên”
này.
Khi
xưa mắt sáng thì chị C. ngột ngạt. Nay mắt loà thì chị
thoải mái bình an. Chị hạnh phúc vì tìm thấy tự do trong mù
loà, thấy ý nghĩa thương yêu trong mất mát. Chị tâm sự
rằng chị muốn gặp gỡ, muốn làm việc tông đồ để có tâm
tình yêu thương trong những dằn vặt, tỉ dụ như đi tới đâu
là chị đành ngồi yên, chịu trận một chỗ. Ngay “việc
cần” cũng... cần người dắt. Nhưng lúc bị lệ thuộc là
lúc chị tìm được tự do của giải thoát.
Cười
hiền hoà, chị C. dí dỏm trả lời câu “Chào minh tinh màn
bạc Hollywood”:
-
Chào các anh chị, Hai em T. và Y. chọc chị đấy hả? Đi mà có
chồng dìu thế này thì đúng là minh tinh... loà thượng
thặng rồi. Em Y. à, em chịu khó dắt chị lên Hollywood để
chị đóng phim “Nhất Vợ Nhì Trời” nhé!
Chị
Sương chiều anh Nghiêm, vừa tìm hiểu sở thích của anh,
vừa dồn tâm tình vào cách thức chiều chồng. Nhưng anh Nghiêm
không vui vì anh giống như nhiều người, không thấy mình
thoải mái tự do khi mình đang bơi ngụp trong tình thương
thoải mái này. Khi chị Sương đau, không pha cà phê cho anh
Nghiêm ban sáng được, hay khi chị phải đi xa, thăm cha mẹ già,
lúc đó anh mới cảm thấy những lúc có chị ở nhà là có
nguồn hạnh phúc. Ít người sung sướng khi mình hít thở
thoải mái, cho đến khi ngất sỉu vì ngộp thở, lúc đó
mới quý trọng những giây phút hít thở tự do.
Mất
mát, chẳng hạn như chị C. mất mắt sáng, có khi lại ích
lợi, lại tiến tới bay bổng bình an. Lúc còn vật chất là
còn sở hữu, dầu vật chất đó là cánh tay, là lông mày lá
liễu, là gò má mịn màng. Mà khi còn sở hữu là còn gò bó
ràng buộc, còn nhức đầu mất ngủ vì sợ bị mất mát
thiệt thòi. Tâm lý loài người mâu thuẫn vì mục đích giữ
gìn sức khoẻ, giữ gìn những vật chất là để được
hạnh phúc; nhưng khi giữ gìn những thứ đó, thì lại mất
hạnh phúc, mất tự do vì sống trong hồi hộp, trong phập
phồng sợ xe hư, sợ động đất nhà sập, sợ cảm sốt,
v.v. Những sợ sệt này là nguyên nhân gây cho mình mắc bệnh
đau tim, tức ngực, nằm ngủ là ú ớ, mơ bị ma đè, chết
trôi sông. Vì mình không an hưởng hạnh phúc đang có, nên
mất luôn cả hạnh phúc tương lai. Phải chăng đây là một
trong những lý do Thượng Đế để con người cụt chân, gãy
xương sống, loét bao tử, để con người tiến tới tự do,
giải thoát?
Tàn
tật và bệnh hoạn đem lại lợi ích vì khi tay bị liệt
chẳng hạn, người liệt tay vừa không lệ thuộc bàn tay,
vừa biết quý báu bàn tay còn lại. Không lệ thuộc bàn tay,
vì xét đến cùng, bàn tay cũng là phương tiện để một người
được hạnh phúc, chứ chính bàn tay chưa phải là hạnh phúc.
Vì không phải là hạnh phúc cuối cùng, nên có người thật
hạnh phúc mà cụt tay, cũng như nhiều người đủ hai tay mà
đau khổ. Người này tự do di chuyển tay chân, nhưng không
tự do di chuyển tâm thần. Tâm thần bị trói buộc dày vò là
tâm thần khổ sở. Khổ sở vì bị giày vò còn khổ sở hơn
vì cụt tay hay liệt tay.
Nếu
có hai tay mà cụt một tay, lúc đó mới quý chuộng cánh tay còn
lại. Nói khác đi, khi mất tay mới thấy hạnh phúc của người
tự do, người muốn cử động bàn tay thế nào tùy ý. Vậy
nguyên sự kiện có tự do chưa làm con người hạnh phúc, mà
còn cần ý thức, cần biết giá trị của tự do, cần rung
cảm chân thật cái ân huệ mình đang hưởng miễn phí nữa.
Một
tu sĩ được hưởng ân huệ của nhà dòng không những về tâm
lý đạo đức mà còn về thể chất, nhưng tu sĩ đó không
biết những ân huệ mình đang tự do hưởng nhận. Tu sĩ này
có cơm ăn hằng ngày mà không phải băn khoăn lúc nào hết
rau, cá, hết gạo, nước mắm, v.v. Khi xuất tu, nếu không đi
làm, không tích sẵn than củi thì không nấu được cơm, lúc
đó mới thấy giá trị của lời: “Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. Hay trường
hợp người còn mẹ, hoặc còn chồng, thì không quý trọng
những giây phút được tự do bên mẹ tuổi già, bên chồng
thủy chung. Khi chồng chết, hay mất mẹ, lúc đó mới thấy
thời gian ở bên nhau là quý báu.
Cảm
thông chân thật đòi hỏi phải có tự do, nghĩa là có thể nói
có hay nói không. Có thể đồng ý chấp nhận tình thương người
khác trao tặng cho mình, hay là khước từ tình thương đó.
Một người trao tặng tình thương mà không để cho người đối
diện được quyền chấp nhận hay từ chối, lúc đó không còn
là trao tặng, mà là cưỡng bức. Ngược lại, nhiều trường
hợp, một người nhận quà tặng mà không biết ơn, vì tự
ái hay vì không biết giá trị của quà tặng. Khi mất quà
tặng hay là mất người tặng quà, lúc đó mới bừng tỉnh,
mới ngưỡng mộ món quà, hay ngưỡng mộ người tặng quà.
Đôi
khi nên xử dụng tâm lý “mất mới quý” này để tăng thêm
cảm thông. Thí dụ: con có dư quần áo giầy dép, nên không
quý đồ dùng, không cảm ơn cha mẹ. Hay vì tôi luôn ăn uống
no đủ, nên không hạnh phúc vì còn đồ ăn uống, còn bao
tử lành mạnh, dễ tiêu hoá. Nay để con phải thiếu thốn đôi
chút, để mình nhịn ăn, ăn chay chẳng hạn, lúc đó con có
thể biết ơn bố mẹ hơn, cũng như mình có thể biết ơn người
cấp dưỡng đồ ăn thức uống, biết ơn Đấng cho mình sức
khoẻ thoải mái, ăn hoài còn đói, ngủ mãi mà còn muốn
ngủ nước, v.v. Trong thiếu thốn, mới nhận ra mình đầy đủ.
Trong giới hạn, mới nhận ra mình tự do.
Tại
sao có mâu thuẫn khi quả quyết rằng: “trong giới hạn
nhận ra mình tự do”? Tự do của con người có giới hạn, vì
con người không đủ khả năng để nhận lãnh tự do vô
hạn. Này nhé, tôi có tự do ăn, nhưng bao tử của tôi không
có tự do chứa thức ăn vô hạn định, nên nếu tôi ăn
nhiều, vượt quá giới hạn chịu đựng của bao tử, lúc đó
tôi phá hủy tất cả tự do, vì tôi bị bất tỉnh, phải vào
nhà thương rửa ruột, nôn mửa ra những gì tôi đã ăn vào.
Từ xâm phạm tự do ăn uống này, tôi mất tự do đi lại, vì
tôi phải nằm liệt giường. Liệt giường đưa tới mất
tự do đi câu, đi phục vụ bác ái, đi làm, kể cả tự do
viết thư tình, vì tình cảnh của tôi lúc đó lên cơn cảm
sốt, trùm mền kín từ chân tới đầu. Đầu bị giới hạn
trong mền nóng ran là đầu không còn tự do để suy nghĩ
những vần thơ trao cho người yêu.
Tình
tự do là tình trong giới hạn, trong khuôn khổ của luân thường
đạo lý, của luật pháp dân tộc. Dân tộc nào văn minh, tự
do và dân chủ thực sự, là dân tộc có nhiều luật pháp chi
phối, để tự do của người này không xâm phạm đến tự
do của người kia. Sự giới hạn tự do này tạo ra liên đới,
ra tình thông cảm của xã hội văn minh, một sự thông cảm có
khi bị coi như không còn thông cảm.
Thí
dụ, để dân chúng trong một thành phố có nửa triệu người
“thông cảm” giúp ích cho nhau, hội đồng dân cử của thành
phố đó ra nghị luật, buộc mọi nhà phải trồng cỏ và
trồng cây trước nhà cho mát mẻ. Lại phải đậu xe trên
đường xi măng, chứ không được đậu trên cỏ, mặc dầu
cỏ đó do mình trồng ra. Thêm nữa, để phong cảnh thành
phố quang đãng, không nhà nào được làm hàng rào cao quá hai
thước. Ngoài ra, không ai được cho người ăn xin ngoài đường.
Nếu cho, sẽ không được khen là bác ái, mà còn bị cảnh sát
bắt, vì như vậy là dung dưỡng những người lười biếng và
làm mất vẻ đẹp, vì thành phố có đủ nhà tế bần cho người
thật sự nghèo túng. Trong trường hợp của thành phố này,
ai không nhận những luật lệ giới hạn trên đây, là người
bị coi như man rợ tiền sử, người phá hoại tự do chung, người
làm hại mình và làm hại người xung quanh.
Lòng
mong muốn thì vô giới hạn, nhưng thể hiện lòng mong muốn
thì có giới hạn. Con người không thể làm vô giới hạn, vì
chính con người có giới hạn. Giới hạn trong không gian, vì
thân xác mình không thể ở nhiều nơi cùng một lúc. Nếu lúc
này ngồi đánh máy ở trong nhà, thì mình không thể bắt sâu
cắn gốc cây bí ở ngoài vườn, hay không thể trong một
khoảnh khắc vừa ở bên Tàu vừa ở bên Tây. Ngoài ra, mình
bị giới hạn trong thời gian, vì mình có khởi điểm thì
sẽ có kết thúc. Đời chỉ là một “mẩu” thời gian
ngắn ngủi. Như thế, làm sao có thể nói tới tự do hoàn toàn?
Và giới hạn cuối cùng là sự chết.
Nếu
lạm dụng thân xác vô giới hạn, thí dụ, làm vô độ, nghĩ
ngợi vô chừng mực, hưởng lạc bất kể ngày đêm, say sưa
trác táng liên hồi, v.v., thì hậu quả là mất hết vì chết
sớm. Vậy nếu muốn sống lâu hơn để làm nhiều hơn, để
hưởng trăng thanh gió mát thoải mái hơn, để thông cảm thân
tình hơn, lúc đó cần trung dung. Trung dung tức là nhận rằng
tự do của mình có giới hạn. Lúc khiêm nhường nhận rằng
mình thể hiện tình thương yêu chưa được trọn vẹn, lúc
đó mình làm cho người khác được yên vui hơn. Khi nhận mình
cũng yếu kém như người, nhận mình đồng cảnh ngộ nay còn
mai mất, lúc đó người và mình gần gũi nhau hơn, chia sẻ
vui buồn, cảm thông với nhau hơn.
Đó
là lý do khi anh Đ. dẫn chị C. mù loà lên làm trợ tá cho Khoá,
cả Khoá đều lên tinh thần. Anh chị giúp mọi người ý
thức giới hạn của mình. Giúp biết hạnh phúc với những gì
đang có. Nhất là có thêm nghị lực trong những yếu kém, vì
chị C. cũng là người như mình, mà chị bị mất nhãn quan,
mất ánh sáng, nhưng chị không mất niềm vui. Trái lại, chị
trao tặng an vui cho người còn mắt mà mù loà, còn thấy ánh
sáng mà lòng tối tăm cay đắng.
II.
Nên Điên, Hay Nên Tỉnh?
Bà
Toàn khi điên thì cười nói vui vẻ, nhưng khi tỉnh thì ủ rũ
đau khổ. Bà muốn cái đẹp tuyệt đối, muốn tự do hoàn toàn.
Bà nghĩ rằng bà: “muốn là phải được”. Và bà đã được,
rồi đã mất. Đời bà bắt đầu bằng tuổi ô mai quý phái,
bằng thời con gái kiêu sa, để kết thúc bằng đời về già
trong nhà thương điên.
Khi
còn bé, bà Toàn là con một nhà buôn lớn. Thật ra, ông bà
nghèo nàn, nhưng nhờ mạo hiểm, dám vào sinh ra tử chở hàng
hoá và thuốc lậu đến những vùng âm u chướng khí, nên sau
mấy năm ông bà lắm tiền nhiều của. Khi sinh con đầu lòng,
ông bà đặt tên là Toàn, để muốn con mình toàn vẹn chứ
không cơ cực như cha mẹ thuở hàn vi. Bé Toàn muốn gì được
nấy. Có tới hai người hầu hạ bé, một người nấu
ăn giặt giũ, còn một người lo đồ chơi và dạy bé đánh
vần. Bé quen ra lệnh cho người ở từ khi lên 2, lên h. Trong
tiềm thức, bé tưởng bé có quyền đòi hỏi mọi chuyện, và
chuyện gì cũng phải hoàn hảo. Bé muốn là được.
Đến
tuổi con gái, em Toàn tới trường là tới nơi “lên xe
xuống ngựa” theo nghĩa nhiều thầy cô chiều em không nguyên
vì em đẹp đẽ, mà vì chiều em là được lòng ba má em. Được
lòng ba má em thì dễ nhờ mua máy móc rẻ, quần áo đồ dùng
rẻ, kể cả mua xe, mua nhà rẻ. Cha mẹ, thầy cô trong trường,
cho đến những người em tiếp xúc, hoặc vô tình hay cố ý
thủ lợi, đều góp phần để tạo cho em một tâm lý kiêu
sa. Em chuyển từ em Toàn thành cô Toàn, vì em đã biết yêu thương.
Một đàng cô muốn bản thân mình thong dong, không bị gò bó
vì bất cứ chuyện gì. Hậu quả là cô ăn nhiều để rồi bày
bẩn ly chén nhiều. Mặc đẹp nhiều để rồi liệng quần áo
dơ bẩn lôi thôi nhiều. Đàng khác, cô gò bó kẻ ăn người
ở, gò bó cả người yêu của cô phải chiều theo ý cô. Người
tốt là người vâng lời cô như con cừu. Còn ai có tự do sáng
kiến đều bị cô kết tội là chống đối, nên cô cho nghỉ
việc, hay cho tuột dù tình yêu vì “anh chàng này không thương
được”. Nhưng nếu ai rụt rè, không dám ứng biến để công
việc cô trao được xuôi chảy, thì cô lại ghép vào tội lười
biếng. Kết quả giống nhau, vì cô cũng cho nghỉ việc, hay cũng
cho tuột dù tình yêu vì “anh chàng này ngố quá”.
Vì
cô Toàn độc đoán, nên không ai có thể tự do bộc lộ tâm
tình với cô. Người nói yêu cô không phải vì yêu cô chân
thật, mà vì lợi dụng cô. Về phần cô Toàn, cô càng trở
thành bất toàn vì cô không muốn biết kẻ khác phản ứng
thế nào về cô. Cô chỉ nghe người nói xuôi theo những điều
cô tưởng tượng, chứ không nghe để tìm hiểu người khác
nghĩ gì về cô.
Khi
muốn cưới chồng, cô bĩu môi chê nhiều đàn ông, cũng như
nhiều đàn ông bĩu môi chê cô. Sự liên hệ giữa cô và người
khác chỉ có dáng vẻ niềm nở, còn trong thâm tâm không ai
tự do muốn đến với ai. Tuy nhiên, một người đàn ông vì
ham tiền, đã luồn cúi cô và gia đình cô. Bề ngoài, người
đàn ông này chiều chuộng, để cô tự do tùy ý, nhưng trong
lòng cay đắng, tìm cách phỉnh gạt. Anh nói với bạn bè
rằng: “Chiều nó, để nó tưởng mình hoàn toàn theo ý nó.
Khi xỏ được mũi, sẽ bắt nó hoàn toàn theo ý mình.” Cô
Toàn cưới anh thật. Và anh cũng thật sự làm đúng kế
hoạch đã định. Anh muốn đào mỏ bố mẹ vợ chứ không yêu
vợ, muốn thoả mãn tự ái cho bạn hữu biết “tao muốn cưới
nó, là nó phải vào tay tao”.
Cô
Toàn đã vào tay người đàn ông này, để anh có cô như có
vỉ nước ngọt, như có bộ ghế ngồi êm ái. Khi khô cổ khó
chịu, thì anh dùng cô cho khỏi thèm khát, cho có chỗ ngả lưng
dựa đầu. Có cô cũng như có món đồ vật để thoả mãn
nhu cầu, mà không cần biết đồ vật đó có nhu cầu của nó
hay không. Anh tự do xử dụng cô cho bõ thời gian theo đuổi
nhục nhã.
Đang
thất vọng về duyên phận chồng con, thì bố mẹ cô Toàn
lại bị tai nạn trầm trọng. Bà chết tại chỗ. Còn ông hôn
mê. Nay ông tỉnh nhưng bán thân bất toại. Trước đây cô Toàn
quen sung sướng, ra lệnh cho người khác, nay dồn dập đau
khổ, không còn gì xảy ra đúng ý cô. Ít lâu sau, chính bản
thân cô thành ngẩn ngơ rồi hoá điên.
Điên
là thần kinh không chịu nổi đau đớn, nên nó lẩn trốn
bằng cách mất ý thức suy nghĩ. Hết suy nghĩ là hết đau đớn.
Người điên là người không đau đớn, là người muốn hoàn
toàn, nên thành bất toàn, không làm được việc gì, lại còn
trở thành gánh nặng cho người khác. Người điên muốn tự
do, tự lập, nên mất tự do, lệ thuộc vào quyết định
của kẻ khác về vận mạng, về sự sống chết của mình.
An
phận vươn lên từ những yếu đuối không thể tránh được,
như vậy lại tránh được nhiều đau khổ. Nếu bất mãn,
than trách Chúa, than trách người, rồi uất ức với mình, thì
đó là mở đường cho đại hoạ của thiếu thông cảm, của
lẩn trốn vào vô thức, vào cõi bất lực mà lại tưởng như
mình toàn lực.
Chị
Toàn mang theo các đặc tính của người điên. Đó là khi
tỉnh trí thì chị ủ rũ buồn sầu. Còn khi điên, thì chị
vui vẻ, cười nói huyên thuyên, và nói những chuyện danh giá
khi xưa. Nếu thế, phải chăng nên điên để hết đau khổ?
Đâu là khác biệt giữa cái vui của người điên và niềm
vui của người tỉnh?
Người
tỉnh là người ý thức, nối kết được việc đã qua với
việc hiện tại, và ý thức rằng mình cần chuẩn bị cho
việc tương lai. Người tỉnh trí cảm thấy vui khi mình có
khả năng liên kết, có khả năng thông cảm để uyển
chuyển tùy hoàn cảnh. Còn người điên mất khả năng uyển
chuyển, không thể thích ứng với hoàn cảnh mới. Người điên
vui với cái vui đã mất rồi, cái vui trong vô thức của
những việc đã qua. Lý trí của người điên giống như
cuốn băng thâu sẵn, chỉ phát lại âm thanh hay hình ảnh đã
ghi. Những hình ảnh này có thể đẹp, rất đẹp, nhưng là
những hình ảnh chết. Đa số người điên chỉ còn ký ức
của những việc đã qua, mà mất lý trí, mất khả năng tìm
hiểu việc hiện tại. Đó là lý do người điên vui cười, nói
huyên thuyên những điều mà người đứng xung quanh không
hiểu gì.
Nếu
ở lâu với người điên, thì thấy họ nói đi nói lại cùng
một điều. Giọng cười khanh khách hôm nay giống giọng cười
khanh khách hôm qua, vì tâm trí họ quay lại cùng một việc đã
làm. Giữa lúc vui cười, khoe mình nhiều tiền, gặp người
quyền quý sang trọng, thì họ có thể... làm ướt quần một
cách vui vẻ! Có khi họ bốc lên, để “nhập cảnh” lại cái
họ vừa “sản xuất” ra. Trong khi đó, người này tuyên
bố mình là vua thứ 14 trên thiên đình! Cũng người này, khi
tỉnh trí, anh cư xử giống như chị Toàn. Đó là anh ủ rũ
ít nói. Nếu nói thì giọng nói chán nản, cho rằng hoàn
cảnh hiện tại của mình đầy đau thương. Nghĩa là anh,
chị Toàn, cũng như những người điên khác, tất cả đều
chối bỏ thực tế, không can đảm đối diện với khó khăn
hiện tại. Khó khăn này là giới hạn của tự do, làm mình
bị hạn chế trong phạm vi chi tiêu tiền bạc, bày biện đồ
đạc trong nhà, đi lại mua bán. Hay bị hạn chế vì mắt
mờ, không tự do đọc sách báo, không tự do nhìn rõ người
yêu đánh má hồng môi son, v.v.
Người
an vui thông cảm, người phấn khởi vươn lên, là người
nhận rằng tuy mình có tự do, nhưng tự do của mình có giới
hạn. Họ quý trọng phần mảnh tự do này nơi mình, cũng như
thận trọng thông cảm, để không xâm phạm phần mảnh tự
do của người. Người điên là người không nhận rằng mình
điên. Khi nhận ra mình điên là lúc bắt đầu hết điên.
Người điên tâm lý hay người bị tâm bệnh, cũng là người
không nhận rằng mình thiếu kém khả năng nào đó. Thiếu kém
tức là thiếu tự do. Người được tự do, được giải thoát
khỏi những ràng buộc hàng ngày, là người nhận rằng mình
không được tự do, nhận rằng trong đời sống hàng ngày mình
có nhiều ràng buộc. Khi nhận mình không tự do, nhận mình có
ràng buộc, thì người này vui vẻ với những điều mình đang
có. Họ tự do bơi lội trong hồ bơi của họ chứ không mơ
mộng một hồ bơi to lớn mà họ không có.
Vì
khả năng và tự do của mình còn thiếu kém, nên mình cần phát
triển bằng cách đọc sách báo, thảo luận học hỏi, tham
dự những buổi thuyết trình nghiên cứu, v.v. Khả năng làm
thức ăn, ruộng vườn, hay khả năng bày tỏ câu chuyện,
chinh phục con cháu nghe theo mình, v.v., những khả năng này
tiến hay lùi, là tùy theo ý mình có kiên tâm trau dồi hàng ngày
hay không. Nếu không thăng tiến, lúc đó dễ mất cả khả năng
và tự do đang có, như lời Kinh Thánh: “Kẻ đã có thì
được thêm. Kẻ không có thì bị lấy mất cả cái họ đã
có” (cf. Mt 13:12).
III.
Chết Buồn, Hay Chết Vui?
Mù
loà như chị C. nhưng chị phấn khởi an vui. Vậy vui hay buồn
không lệ thuộc vào các phần cơ thể, hay vào các tiện nghi
vật chất bên ngoài. Buồn vui trước tiên là do Tinh Thần
Tin Tưởng bên trong. Tin tưởng này có thể là ảo mộng
khi cho rằng mình có tự do tuyệt đối. Trái lại, tin tưởng
này sẽ thực tế hơn, khi cho rằng mình chỉ có tự do tương
đối. Tin tưởng mình tự do tuyệt đối, nên mình thất
vọng. Chết buồn. Chết buồn vì không có ai để chia sẻ, để
cảm thông. Cảm thông là nhận mình cần người, mình còn
yếu kém. Người và mình cần nương tựa nhau để sống. Nhưng
người đòi tự do tuyệt đối là người khước từ, người
khinh khi trịch thượng người khác, nên trở thành cô đơn,
buồn nản, không có ai để tâm sự.
Cha
Andy chống gậy, chân đi lập cập, hay ngồi thở dài. Ngài 78
tuổi, về hưu từ lâu. Nhưng tâm trí ngài chưa muốn hưu vì
mắt ngài còn thèm nhìn thấy hồ Geneve bên Thụy Sĩ, và tai
ngài còn thèm nghe đại hoà tấu tại Cologne bên Đức. Ngài còn
mơ ước nhiều loại tự do, nhất là tự do đi lại, trong khi
thực tế ngài bị giới hạn vì ngài tự làm mình té ngã gãy
chân hai lần. Cha tin Chúa trong ý nghĩ trừu tượng, nhưng ai oán
nghi ngờ trong những biến cố xảy ra cho đời mình. Vì nghi
ngờ nên không nhìn thấy chân gãy là để mình được tự do
hơn trong tinh thần phó thác, trong an vui vì mình bớt bị lệ
thuộc vào vật chất của vòi nước phun, của tiếng động
ồn ào, cho dầu vòi nước đó là vòi nước phun cao nhất
thế giới của hồ Geneve, tiếng động đó là tiếng động
của dàn nhạc lừng danh nước Đức.
Sự
thèm muốn tự do vượt giới hạn này làm cha Andy buồn với
mình, không chấp nhận những ngày tháng mình đang sống.
Sống lanh quanh trong khu vực nhà hưu, nhưng lại mơ mộng như
sống tung hoành khắp các nẻo đường thế giới của 30 năm
về trước. Kết quả là cha ít cười, hay cau mày, mặt lúc nào
cũng nhăn nhó như bực tức với ai. Trong 70 linh mục sống cùng
một cộng đoàn, thì cha Andy nổi tiếng là người khó thông
cảm. Dần dần ai cũng tránh cha, vì nói không đúng ý là cha
vừa xẵng giọng vừa có bộ mặt tức tối. Nếu không nói
về linh hồn, mà chỉ nói theo những điều đã xảy ra, thì
cha Andy sống buồn tủi cho đến lúc chết, vì trước khi
chết mấy ngày, cha còn nói mê sảng là cha sắp bay đi Thụy
Sĩ! Không phải mọi người tu trì đều tỏ ra chán chường
như cha Andy, nhưng truyện đời cha chứng tỏ khung cảnh tu trì
bên ngoài không thay thế tâm trạng bên trong. Người muốn
mọi việc xảy ra theo ý mình, muốn được tự do hoàn toàn,
là người dễ thất vọng.
Người
hy vọng là người biết chấp nhận mình đang bị mù loà về
vật lý và bị điên về tâm trí. Mù loà vì mắt đeo kiếng
to, mở lớn, nhưng không trông thấy điều gì sáng sủa cho tương
lai. Điên vì những toan tính của mình không phù hợp với hoàn
cảnh hay với người mình tiếp xúc. Mình muốn người thương
yêu cộng tác, nhưng lời nói cử chỉ và cách thức mình cư
xử khiến người khinh chê, tránh né mình.
Anh
chị Nhãn và Tiền bị “mù loà” về việc anh chị có thể
sinh con hay không, vì hai người cưới nhau 11 năm mà không có
con. Đi khám bác sĩ, được biết tinh trùng của anh quá yếu
và chu kỳ trứng rụng của chị không đều. Chạy chữa
nhiều thầy thuốc, tới nhiều bệnh viện danh tiếng quốc
tế (có những tỷ phú từ các quốc gia khác đến đây để
hy vọng có con), nhưng không có hiệu quả.
Sau
khi tham dự Khoá Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình, anh chị Nhãn và
Tiền an phận, nhận chân thật rằng có con hay không là việc
ngoài khả năng của mình. Đó là việc thuộc quyền tự do
của Chúa. Trước đây anh chị hăm hở đi tìm các phương pháp
để có con, thì tâm trí anh chị căng thẳng, lo lắng mất
ngủ hơn. Tình trạng tâm lý này làm cho tinh trùng của anh thêm
yếu kém, và kinh nguyệt của chị thêm trồi sụt. Nhưng từ
khi an phận nhận rằng “có con thì tốt, mà không có con,
vợ chồng vốn thương yêu nhau”, thì tâm trạng hai người
thay đổi. Anh chị vui vẻ, dành nhiều thời giờ cho nhau, và
tìm ra những việc để hai người làm chung trong lúc rảnh
rỗi, chứ không im ỉm lạnh lùng như xưa.
Hai
người ăn uống ngủ nghỉ điều hoà, tâm thần thoải mái.
Anh chị lại an ủi nhau rằng: Một trong các mục đích có con
là để tăng thêm hạnh phúc bên nhau. Vậy tại sao không tăng
hạnh phúc cho nhau ngay bây giờ, mà lại làm khổ nhau? Vả chăng,
hạnh phúc tối hậu nằm trong tay Chúa, vậy tại sao không hy
vọng vào Chúa, mà lại chỉ hy vọng vào mình? Tại sao thất
vọng khi mình không được như ý? Niềm vui tự nhiên phối
hợp với niềm tin siêu nhiên này đã thay đổi nếu sống
buồn nản của hai người. Ít lâu sau, tinh trùng của anh Nhãn
mạnh hơn, và trứng của chị Tiền cũng rụng điều hoà hơn.
Rồi chị Tiền mang thai. Cháu đầu lòng nay gần hai tuổi, và
anh chị vừa thêm cháu thứ hai. Nhiều người coi đây như
“Dấu Lạ của Niềm Tin”, của khiêm nhường nhận mình
yếu kém, của phó thác vào Tự Do Quan Phòng của Chúa. Thật
ra, không phải cứ hy vọng là có phép lạ. Nhưng người hy
vọng sẽ được “dấu lạ”, đó là cõi lòng bình an, không
cay đắng thất vọng. Người hy vọng là người vượt ra ngoài
phạm vi tự do hạn hẹp của mình.
Điều
kiện để thông cảm, để vui vẻ với bản thân và với người
khác là:
1.
Cần nhận rằng tự do của mình có giới hạn.
2.
Tin rằng Chúa Quan Phòng có Tự Do toàn năng.
3.
Tin rằng Chúa dùng Tự Do Toàn Năng của Ngài không phải để
hãm hại mình, mà để Thương Yêu Săn Sóc mình.
4.
Kết quả là mình lệ thuộc, nhưng là sự lệ thuộc giải
thoát, sự lệ thuộc an vui phấn khởi.
Tuy
mình vốn đau khổ, vốn chết, nhưng là chết trong hy vọng.
Chết để tham dự vào niềm vui và tự do của Đấng Thương
Yêu mình: “Giavê đã gọi con từ trước khi con sinh ra;
từ trong lòng mẹ, Ngài đã nhắc tên con” (Is 49:1).
Cô
Hồng Thọt là điển hình của người chết vui vì nhận tự
do của mình yếu đuối mong manh. Cô có biệt hiệu là
“Thọt”. Sự kiện thọt chân không đẹp cho cô vì cô đi cà
nhắc khó khăn. Cũng không đẹp cho người nhìn cô, vì đa
số ưa nhìn người bước đi duyên dáng, chứ ít ai ưa nhìn
kẻ tàn tật xấu xí. Khi cô Hồng lên 17 tuổi, thân hình cô
dịu dàng, bước đi uyển chuyển, và tâm hồn cô trong sáng.
Nhiều cậu trai ngấp nghé nhìn trộm cô, nhưng cô không để
cậu nào ăn trộm được tấm lòng trinh trong của mình.
Ngày
nọ, cô đi tập Thánh Ca như thường lệ. Khi hết tập dượt,
cô ra xe về nhà. Một chàng theo sát nút, tìm đủ cách chèn cô,
miễn sao cô phải ngưng giữa đường. Bất thần, anh này
chồm lên trước, chặn ngang đầu xe của cô. Cô không kịp
thắng, nên hai xe tông vào nhau. Lệ thuộc dâm dục và tự ái,
không còn tự do sáng suốt để chống cưỡng đam mê thèm khát,
chàng nhảy chồm tới, xô đẩy, chờm hớp, xé rách quần áo
cô. Cô chống cự mãnh liệt như ngang sức với chàng. Chàng
điên tiết chộp được cục đá to bên lề đường, nện túi
bụi lên người cô. Chàng đánh đập như điên vì giây phút
đó chàng điên khùng mất trí. Cô ngã quỵ. Chàng không buông
tha, tiếp tục giáng chí tử lên đầu, lên chân. Cô hôn mê
bất tỉnh, ú ớ như tiếng kêu cầu từ vực thẳm rợn rùng.
Ngưng đánh đập, chàng nhảy lên xe, trốn biến vào đêm
tối mịt mù.
Sau
những ngày tháng điều trị tại bệnh viện, khi cô Hồng
về nhà với thân thể tàn tật, thì thanh niên này cũng bị
bắt. Người ta hỏi cô muốn anh phải làm gì để đền bù
tội ác? Cô đằm thắm trả lời: “Em mong anh hối cải vì
anh là người đáng thương. Nhục dục làm anh mất tự do sáng
suốt. Em yếu đuối mà chống cử nổi để khỏi bị hãm
hiếp, cũng là nhờ Chúa gìn giữ”. Mặt cô bị thẹo vì
đá nện tứ tung, xương chân trái cô bị gãy nát. Nay chân
cao chân thấp, thành cô Hồng Thọt! Cô Hồng Thọt chống
nạng vào nhà tù thăm người đánh mình thành thọt. Thọt chân
nhưng không thọt tâm hồn. Người thọt chân chống nạng vào
nhà tù thăm người thọt tim, và sửa chữa tim thọt thành tim
lành, thay thế tim chai đá bằng tim thịt mềm rung
cảm (cf. Ez 36:26).
Tấm
hình chụp cô gái thọt ngồi trong tù, ân cần hỏi thăm người
đánh mình phai tàn nhan sắc, tấm hình này phải là tấm hình
đẹp nhất nhân loại! Nhân loại nhận mình tàn tật là nhân
loại đẹp vì lúc đó nhân loại sẽ hết tàn tật. Còn nhân
loại chối bỏ tàn tật là nhân loại tàn tật kinh niên,
bất trị.
Khi
cô Hồng trở thành cô Hồng Thọt, cô Hồng không còn tự do
khoe mẽ về nhan sắc bên ngoài, về thoải mái đi lại dễ dàng.
Lúc cô bị giới hạn về thể lý như vậy, lại là lúc cô
tự do thênh thang về tâm lý và tinh thần. Thật ra, không ai
nỡ gọi cô là “Hồng Thọt”, nhưng vì cô không tự ái
mắc cở, lại vui vẻ, tự diễu cợt về cái chân thọt của
mình, nên dần dần những người cảm mến cô, đã thêm
tiếng “Thọt” vào sau tên “Hồng”, để lúc gọi
“Hồng Thọt”, là lúc yêu thương kính phục một người
con gái cao thượng, bay bổng trong thương yêu cảm thông. Tối
nọ, như linh cảm mình sắp chết, cô nói vừa thánh thiện
vừa vui vẻ trong bữa ăn: “Chưa đưa chén cơm lên miệng
con đã thấy ớn. Không muốn ăn, nhưng con muốn ngửi mùi nước
mắm thơm phức. Chắc nước mắm trên Thiên Đàng mà chấm
với đậu hũ thì ngon hơn nước mắm Phan Thiết!” Vài ngày
sau, trong lúc vui vẻ kể truyện Sấm Truyền Cũ cho mấy cháu
nhỏ trong nhà, thình lình cô ngả gục đầu xuống xe lăn. Cô
bị đứt mạch máu trong óc não vì đá đập vào đầu mấy năm
trước. Cô chết bình an. Cô thể hiện tình yêu lớn lao qua
những việc làm bé nhỏ, với bước chân thọt tràn đầy tình
thương.
Cô
Hồng Thọt chết vui, chết thánh.
“Thánh Hồng Thọt, cầu cho chúng tôi”.
Chúng tôi không thọt thân xác, nhưng thọt tâm hồn.
Con
người có thể bị thọt, bị mất quân bình trong khi tìm tự
do, trong khi hiểu lầm về cách thức xử dụng tự do. Thông
cảm chân thật đòi hỏi được tự do để nói “Có” cũng
như để nói “Không”. Có đi ăn tiệc hay không đi ăn tiệc
tối nay? Có đi tu hay không đi tu? Có nhận lời đính hôn hay
từ chối? v.v. Những việc này liên hệ đến tình nghĩa thông
cảm. Mà thông cảm chỉ có trong tự do chứ không thể có
trong cưỡng bức.
(Lm.
Phêrô Chu Quang Minh, Cảm Thông Để Vơi Đau Khổ II,
trang 503-520)
|
|