Legio Mariae
Trang Nha
 

 

 

 
Kenosis trong xã hội

Ð

iều mà người ta dễ làm cho người ta nhàm chán nhất là sự quay đều của cuộc sống. Người Á Đông quan niệm thời gian là một vòng tròn luân chuyển nối tiếp nhau: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Vòng luân chuyển của một kiếp người: Sinh, bệnh, lão tử. Vòng quay đều của số phận có sinh - có tử. Vòng luân hồi của những lần thay kiếp…

Cái vòng tròn luân chuyển, không phát sinh gì mới, bởi vì hình tròn là loại hình không còn góc cạnh. Cuộc sống thì lại ngược với vòng tròn khép kín, khi thăng khi trầm trong một thân phận, khi vui khi buồn trong cảm xúc cá nhân, khi nắng khi mưa trong chuyển thay khí hậu… Xem ra có một mâu thuẫn, có một biến dịch trong vòng tròn quan niệm và thường ngày sống của con người.

Như vậy cần đạt tới sự viên mãn của thời gian, sự viên mãn của đời người sau vòng sinh tử, viên mãn sau vòng tròn luân hồi. Đạt điểm của viên mãn ấy là giải thoát. Nhưng không thể đợi đến sau khi đạt tới sự viên mãn mới giải thoát hoàn toàn. Cần có những lần kinh nghiệm giải thoát nho nhỏ, từng lần hoặc từng thời kỳ để hoàn tất sự viên mãn. Có một Kenosis để giải quyết sự xung khắc này.

Trong xã hội, Kenosis là một cần thiết để làm mới lại những vòng tròn cũ kỹ. Kenosis xã hội có dưới nhiều dạng: Lễ hội - văn hoá nghệ thuật - Những công viên, bờ sông thoáng mát - Những ngày nghỉ.

1. Lễ hội:

Vòng đời người đầy những trắc trở, cuộc sống bấp bênh, nay còn mai mất, con người không thể nào có thể bình tâm trước những thay đổi bấp bênh ấy.

Nguồn gốc của các lễ hội: Thưở xa xưa, nông nghiệp hầu như là nhờ trời, ơn đất, không thể nào mà không “trông trời, trông đất, trông mây. Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm” để được no cơm áo ấm. Dù có tôn giáo hay phủ nhận tôn giáo, người ta vẫn có những cảm thức về siêu nhiên này. Cảm thức cần có một “thời gian thiêng” để tế Trời cầu mong cho đất sinh chồi nảy lộc và thời gian giãn để tỏ niềm vui tạ ơn qua việc hội. “Thời gian thiêng” dành cho một tập thể trước một vụ mùa hay sau một vụ mùa gọi là lễ. Sau “thời gian thiêng” dành cho lễ là hội. Sau giai đoạn Kenosis là Plerosis, sau lễ là hội, sau thời gian trút bỏ là phục hồi.

Hầu như các tộc người tại Việt Nam nghi lễ nông nghiệp diễn ra ở khắp nơi, suốt theo từng giai đoạn của vụ mùa. Các loại lễ chính gồm có: Nghi lễ cầu đảo, tín ngưỡng phồn thực, nghi thức thờ mẹ Lúa - Thần Lúa - Vía Lúa, nghi lễ hạ đồng, tết cơm mới…

Nếu xét từng thành phần của lễ và hội, người ta thấy có nhiều loại lễ hội khác nhau. Mỗi loại lễ hội mang những định hướng đời sống khác nhau.

Xưa kia, việc mở hội của làng xã mang tính chất tín ngưỡng, ngoài việc tưởng nhớ các vị thần, thì thời gian và mục đích của hội đã chứa đựng nhiều tín ngưỡng dân gian. Hội được mở chủ yếu vào mùa Xuân và mùa Thu, đó là thời gian mốc cho một chu kỳ sản xúât và đời sống. Mở hội để cầu mong sự may mắn và thành đạt cho vụ mùa, gia súc và con người. tiến hành nghi lễ nhằm cầu cứu sự bảo trợ, giúp đỡ của thần linh đối với làng. Thời gian của hội làm phục hồi những giá trị sống và bảo lưu văn hoá cho con cháu. Đó là một cách thức lưu truyền và tưởng nhớ trong văn hoá dân tộc. Lễ hội có sự đóng góp của nhiều người được bầu ra lo việc tổ chức: Bồi tế, chấp sự hay những người lo lễ tế hoặc nhiều người lo việc nhỏ nào trong hội. Mỗi người tham dự đều ý thức tính cách trang trọng của lễ hội, nếu cử hành tốt thì được phước, nếu xấu thì vạ đến với cả làng. Cho nên ngoài việc tổ chức hội, còn là một mục đích tạo mối liên kết giữa những người trong làng, người ta có dịp làm chung với nhau cho một mục đích của làng, khác với đời sống thường ngày, các gia đình chỉ liên hệ với nhau theo nhu cầu nông nghiệp, dịp lễ hội là sống những giá trị thiêng thánh và giá trị chung của cộng đồng. Văn hoá lễ hội trong đó có tính cách xây dựng tình làng nghĩa xóm. Củng cố các giá trị đạo đức truyền thống, những gì nghịch lại thì trong hội có những tuồng chế diễu. Lễ hội tái tạo những gì đang sứt mẻ trong đời sống thường nhật, nhằm giúp cộng đồng sống tốt hơn những giá trị.

Lễ hội cần thiết cho bất kỳ một xã hội nào, nó làm tái sinh cho một xã hội, định hướng đi tới cho một xã hội ấy. Dù là một quốc gia tự nhận cho mình là vô thần đi chăng nữa vẫn có nhiều lễ hội được tổ chức trong một xã hội, ví dụ: Ngày quốc khánh

Những ngày lễ ấy nhằm mục đích nghỉ ngơi và gặp gỡ, làm hồi phục sức khoẻ, sau những ngày làm việc căng thẳng và mệt mỏi; nhằm tăng cường sự dẻo dai cho một công việc dài lâu, làm tươi trẻ lại tinh thần mệt mỏi sau một chu kỳ làm việc. Đi sai mục đích sẽ làm tuột hậu và trì trệ cho một xã hội.

Trong một thời gian trước đây, cách đây hơn một thập niên, người ta thường nghe và thấy những khẩu hiệu “Tăng năng suất để chào mừng ngày…” gì đó trước lễ, hiệu quả của những khẩu hiệu ấy vẫn làm cho hậu quả kinh tế sút kém, nền kinh tế vẫn kém phát triển và cỗ máy sản xuất vẫn ì ạch lê tới. Nguyên do là sai lầm khi dùng những ngày lễ thay vì nghỉ lại tăng năng suất, một cỗ máy đã ì ạch, tăng năng suất chỉ làm cho cỗ máy ấy ì ạch hơn thôi.

Như vậy định hướng cho từng lễ hội là quan trọng, thiếu định hướng hoặc định hướng sai lầm cho lễ hội sẽ không đạt hiệu quả cho thời kỳ phục hồi mà có khi lại là hậu quả.

Định hướng cho một lễ hội, cần đạt tới một giá trị nào đó trong văn hoá, người ta không tổ chức lễ hội được nếu thiếu định hướng của giá trị văn hoá. Lễ hội cần đáp ứng được hai yêu cầu: Vừa là thời gian nghỉ ngơi vừa là thời gian tìm về một giá trị nguồn cội. Thiếu một trong hai yêu cầu này, lễ hội mất ý nghĩa và xã hội sẽ xáo trộn, mất trật tự, căng thẳng hoặc sút kém.

Lễ hội của xã hội còn là một thời gian xả những căng thẳng, bức xúc trong đời sống, nhìn trong một khía cạnh tinh thần, nó là thời gian để tái hồi những nguồn năng lực đã mất hoặc tiêu hao.

Lễ hội còn là thời gian sống các giá trị khác nhau trong đời sống của một người. Đơn giản, con người sống trong một xã hội có nhiều tương quan, Lễ hội là thời gian đặc biệt để sống những giá trị tương quan của mỗi cá nhân khi thường ngày họ không thực hiện được. Ví dụ, thăm bạn bè, họ hàng ở xa, tham quan du lịch, dành thời gian cho giải trí tìm hiểu khác…Đó là thời gian dứt khỏi những ràng buộc thường ngày để tìm một lối thư giãn.

2. Văn hoá nghệ thuật.

Văn hoá nghệ thuật là hình thức Kenosis cho từng ngày sống hoặc một giai đoạn ngắn trong cuộc sống.

Nghệ thuật theo bản chất của nó là giải thoát ra khỏi những góc nhìn quen thấy trong cuộc sống. Vì thế nghệ thuật cần mang tính siêu thời gian.

Trong một đối thoại ngắn ở cuốn phim “Sám hối” của Nga, được chiếu vào năm 1988, tại Saigòn: Khi Ông Thị Trưởng tới thăm nhà ông hoạ sỹ, thấy ông hoạ sỹ đang vẽ một bức tranh Đức Mẹ Đồng Trinh, Ông Thị trưởng mới đề nghị ông Hoạ sỹ: “Sao ông không vẽ một cô gái đang đứng trước một cỗ máy dệt có hiện thực hơn một Đức Maria Đồng Trinh không? Ông Hoạ sỹ trả lời với ông Thị Trưởng: “Ông chỉ nhìn thấy cái rất nông cạn, còn tôi tôi nhìn xa hơn ông cách hơn cả ngàn năm”. Mẫu đối thoại này, trong nhiều hình thức nghệ thuật người dân được hưởng, có cảm tưởng những gì đã được hưởng mang nhiều giới hạn quá. Những giới hạn đó làm mất đi nhiều tính tốt của một cá nhân trong một xã hội.

Một xã hội không chỉ nhằm vào sản xuất, tăng năng suất mà quên vấn đề nhân sinh. Một nơi thờ tự không chỉ dừng lại ở việc đạo đức mà thiếu môi trường thánh thiêng.

Theo nguyên tắc: “Không ai có thể cho cái mình không có”, cá nhân không sống tươi trẻ, cộng đồng sống sẽ già nua.

Nghệ thuật là để giải thoát khỏi những nhìn quen thuộc, đó mới là hình thức của Kenosis hằng ngày vẫn cần đến mà đôi khi ta quên lãng. Những giây phút dứt mình ra khỏi những nặng nề mỗi ngày là một sự cần thiết. Cuộc sống cần làm tươi trẻ lại mỗi ngày, điều đó đôi khi dễ mà hay quên mất.

Mỗi khi nhìn một bức tranh giá trị mà bạn yêu thích, bạn thấy dễ chịu hơn một ít, mỗi khi nghe một bản nhạc hay, bạn thấy đời trẻ hơn một xíu, mỗi khi bạn ngắm một bông hoa, uốn một cành cây bạn thấy đời vui hơn. Đó là những lúc bạn đang chết cho những sáo mòn để hồi sinh cho những gì mới.

Có rất nhiều hình thức gột bỏ và tái sinh trong mỗi ngày theo nghệ thuật sống của mỗi cá nhân. Người nào biết sống người đó mới vui sống. Biết sống nghĩa là biết gột bỏ và hồi sinh sức sống.

Bạn có thể là người bất hạnh, khi sáng sớm mở mắt ra bạn đã thấy có bao nhiêu công việc hoàn thành trong ngày, rồi bạn chẳng kịp làm gì khác, lao đầu vào làm, vội vàng ăn sáng, lại tiếp tục cho đến trưa, ăn trưa lại làm cho đến chiều. Chiều về lại bận tâm suy nghĩ làm gì cho buổi sáng sau. Bạn đang là ông thị trưởng đề nghị vẽ bức tranh cô gái đứng bên máy dệt đấy.

Người nhìn gần và giới hạn là người nhìn thấy nhiều bất hạnh nhất. Cái căn bản nhất là cuộc sống có nhiều giá trị, nếu chỉ sống một giá trị thay cho các giá trị khác, sẽ rơi vào đau khổ bất hạnh. Đã có thời, người ta đã từng nêu cao khẩu hiệu: “Nhà nhà sản xuất, người người sản xuất”, “nhà nhà chăn nuôi, người chăn nuôi”, người ta nuôi heo ngay cả trên lầu, chuồng gà dưới bếp, để làm kinh tế phụ. Thực tế trong mức đón nhận hiệu quả của nền sản xuất ấy là đói ăn. Ngày ấy, chỉ mong ăn sao cho đầy bụng chứ làm gì có ngon.

Có rất nhiều kinh nghiệm về gía trị kenosis trong nghệ thuật sống mỗi ngày nơi chính gia đình đang đánh mất.

Bạn cứ thử nghiệm, vào một căn nhà mất trật tự, quần áo treo khắp nơi kể cả để chung với chén đĩa, nơi những xong chảo, nền nhà hình như không có chổi để quét, các thứ siêu vẹo, ngổn ngang. Nếu bạn sống trong tình trạng ấy lâu, bạn sẽ thấy tính tình của bạn thay đổi theo chiều hướng xấu, bạn trở nên con người bẳn tính hơn, bất cẩn hơn, u buồn hơn. Bao nhiêu hệ luỵ kéo theo cuộc sống xuống dốc ấy nữa. Rồi bạn ghen tỵ với người khác vì sự xuống cấp về tình trạng của bạn. Bạn sẽ chẳng hài lòng về điều gì cả. Đó là một quy trình của một đời sống thiếu nghệ thuật sống, hay nói cách khác là thiếu sự giải thoát và phục hồi trong nghệ thuật sống. Sống cuộc sống buông thả là sống một cuộc sống bất hạnh và bất trắc.

Muốn thay đổi làm cho cuộc sống tươi vui hơn, hãy khởi đi từ những gì gần gũi nhất, đó là bằng những cố gắng khởi đi từ căn phòng, ngôi nhà nhỏ bé của bạn. Sắp xếp các thứ trật tự căn phòng của bạn, trồng một cây hoa nhỏ nào đó để bạn có thể dành vài ba phút chăm sóc mỗi ngày, có thể vài bông hoa, đặt một bức tranh dễ mến trên tường. Làm cho căn phòng trở nên ấm áp dễ nghỉ ngơi, bạn dễ tìm được một sự thư giãn thanh thản trong lúc mệt mỏi. Bạn đang thay đổi sự sống mỗi ngày từ kinh nghiệm kenosis rồi đấy.

Khởi đi từ cái đẹp con người mới trở nên hoàn mỹ hơn.

3. Công viên - bờ sông:

Thông thường mỗi thành phố đều có ít nhiều công viên, những nhà môi trường học thì gọi đó là lá phổi xanh cho thành phố.

Trong văn hoá những công viên có giá trị hơn thế rất nhiều:

Làm tăng thêm sức sống cho những người đi làm, những trẻ đi học buổi sớm. Đó là một không gian mở cần thiết, cho con người sau một giấc ngủ thu hẹp trong một ngôi nhà. Không gian mở ấy là giải thoát khỏi những tù túng và bắt đầu một ngày mới tốt đẹp.

Công viên và những dòng sông uốn lượn tạo nên cảm giác dễ chịu, sau những giờ làm việc hết sức, người ta vừa dứt ra khỏi môi trường làm việc là gặp ngay những giờ thoải mái, sảng khoái trong những môi trường xanh, sạch sẽ và bóng mát. Môi trường thiên nhiên làm dịu lại những căng thẳng của cuộc sống. Đó là một chiều kích nền tảng cho nền văn hoá công nghiệp đương đại.

Người Á Đông quan trọng tính hài hoà giữa thiên nhiên và kiến trúc xây dựng. Không thể là những bông hoa cây kiểng giả, cũng không dùng một tỷ lệ quá nhỏ giữa cây xanh với số công trình kiến trúc. Thiên nhiên hài hoà với kiến trúc làm nên một môi trường thư giãn, trút bỏ mệt nhọc thân xác và tìm lại sức khỏe tâm hồn. Nhà thờ, một số nơi người ta cố gắng cho phần kiến trúc thể hiện tính cách Á Đông mà ít khi đặt phần kiến trúc ấy trong một tổng thể hài hoà với thiên nhiên. Thiên nhiên đóng vai trò cần thiết để trả về cho tâm hồn “những giờ thiêng” đó là một môi trường dứt bỏ khỏi những bận rộn cuộc sống hằng ngày, tách mình ra khỏi dòng sống ồn ào, gột tẩy khỏi những uế tạp của tư tưởng. Nơi thiêng thánh, thờ tự, thiếu môi trường xanh sẽ không bao giờ đạt hiệu quả cao cho sự tìm về chốn thanh thản của tâm hồn. Từ bỏ, dứt bỏ sẽ là lời nói suông khi nhìn vào chỉ thấy những kiến trúc, cần thiết nên có một môi trường thiên nhiên, ở đó con người đang dứt bỏ những tỵ hiềm xấu xa, dứt bỏ cõi trầm mặc kiếp nhân sinh mà tìm về chốn thiêng, làm tươi trẻ tâm hồn.

Nếu chỉ dừng lại ở kiến trúc, môi trường thiên nhiên bị phá vỡ, người ta chỉ cảm thấy ngột ngạt, cuộc sống là cuộc chạy đua không ngừng nghỉ và hậu quả là xuất hiện những thác loạn bùng nổ.

Hội Nhập văn hoá không chỉ dừng lại ở kiến trúc mà xa hơn là ở những bóng mát cho cuộc đời. Thiếu môi trường hít thở bầu khí thánh thiêng, người ta cũng sẽ sống thiếu đời sống thiêng thánh. Sự tục hoá bắt nguồn từ sự thiếu hít thở đó.

Thông thường tại các gia đình các hộ chỉ trồng được vài ba gốc cây xanh, một vài gốc không làm nên một môi trường, người ta cần có một môi trường xanh, xã hội cho họ với mục đích tạo sự an bình, giáo xứ cho họ để tạo bầu khí thiêng thánh. Hãy dừng lại ở những kiến trúc chỉ vì kiến trúc và hãy nghĩ về những môi trường xanh. Thiếu môi trường xanh, sẽ là những gán ghép xem ra thô kệch với ý nghĩa của từng phần kiến trúc. Đưa một triết lý hài hoà thiên - địa - nhân vào trong những kiến trúc xây dựng gọi là Á Đông là một sai lầm lớn của những chủ đầu tư. cuối cùng kết quả công trình xây dựng đó là bằng chứng tố cáo về việc hội nhập văn hoá thiếu chiều sâu.

Sạch sẽ trong môi trường sống cũng tạo nên sự sạch sẽ của tâm hồn. Rác rưởi là hậu quả sự nghèo đói, tội lỗi là hậu quả sự trống vắng của cõi thiêng. Ngày nay, ý thức về vệ sinh môi trường không cao là minh chứng cho sự kém phát triển đó. Con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, cần có một môi trường khác hơn những gì đang thấy. Đó là một tổng thể của định luật sáng tạo, khi Thiên Chúa sáng tạo mọi vật trong thiên nhiên rồi mới đặt con người vào. Con người làm chủ thiên nhiên và tạo vật, tính cách làm chủ và cai quản đó bị bào mòn, khi con người chỉ nhắm tới giá trị kinh tế của tạo vật và thiên nhiên. Xét ở điểm này, sở dĩ ý thức của người dân, không tôn trọng môi sinh trong sạch là vì một phần nào của ý thức hệ trước đây, đã biến những công viên thành những luống khoai, những luống rau…Biến những dòng kênh lượn lờ thành con kênh mang chất thải đổ ra sông.

Trong Hội nghị tổng kết “Hội Thi Môi Trường Xanh Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2002” có một ý nghĩa hồi sinh. Nhận định về đặc điểm tình hình môi trường để phác thảo một kế hoặch là đúng hướng: “Thành Phố Hồ Chí Minh có diện tích tự nhiên 2.093 km2, dân số 5, 3 triệu người (năm 2002). Mật độ dân cư bình quân toàn thành phố 2523 người/ km2, khá cao so với nhiều thành phố khác trên thế giới. Hơn nữa, lại phân bố không đều, tập trung quá đông ở Nội Thành - hơn 4 triệu người trên diện tích 140 km2, tức chiếm tới gần 80% dân số, nhưng chỉ có 6,7% diện tích tự nhiên. Mặt khác, công nghiệp Thành Phố ngày càng phát triển, thu hút nhiều lao động từ các tỉnh về cũng đã làm cho mật độ dân cư tăng cao hơn và môi trường thành phố ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Phương tiện giao thông phát triển nhanh trong khi đó, đường xá phát triển không tương xứng; các nhà máy, xí nghiệp, khu chế xuất ngày càng thải nhiều chất độc hại vào môi trường, làm cho bầu không khí, đất và nước bị ô nhiễm nặng nề. diện tích xanh nội thành bình quân đầu người từ 0,7m2 vào những năm cuối thập kỷ 80, đã phấn đấu tăng hơn 4m2 vào năm 2002. nhưng các chỉ số trên so với nhu cầu sinh thái đô thị vẫn còn ở mức tối thiểu. và, nếu so sánh với các thành phố văn minh trên thế giới có từ 30 - 50 m2 diện tích xanh/người, thì chỉ tiêu xanh nêu trên ở thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn khá thấp”.

Kênh Nhiêu Lộc đang được tái tạo là dấu hiệu đáng mừng cho một thành phố phát triển. Thiếu những dòng sông uốn khúc, là thiếu cảnh quan, thiếu một môi trưởng thoáng mát cho một thành phố nóng nực vì khí hậu và vì chất thải công nghiệp. Bài toán xem ra đang ở ngưỡng cửa khi làm trong sạch những khối nước thải trước khi ra dòng kênh. Thành phố đang có dấu hiệu của hồi sinh.

Giáo xứ, một môi trường thiên nhiên cho cộng đồng vì thế cũng cần những diện tích cho phần ao hồ, người ta có thể tìm vào môi trường ấy để tập dưỡng sinh, tìm phút thanh thản trước những trầm mặc của cuộc sống. Không thể thu gọn ao hồ bằng những chiếc chậu cá cỏn con, điều đó gia đình người ta cũng có thể làm được, điều họ cần hơn là một ao hồ thật sự, ở đó có những đàn cá tung tăng, thanh bình bơi lội. Có môi trường cho những đàn chim ríu rít gọi sức sống đang tuôn chảy theo từng nhịp vỗ.

Môi trường thiên nhiên là một môi trường hội nhập văn hoá thật sự, cần hơn một kiến trúc theo khối, mang sắc thái của người Á Đông, cần hơn cho những ngôi nhà chỉ bêtông và cốt sắt. Nhìn xa cho một công trình xây dựng theo lối kiến trúc Á Đông hài hoà trong một tương lai dài, có lẽ các mô hình mới hoặc chuẩn bị xây dựng cũng nên lưu ý về mật độ xanh này. Nhà thờ nơi đổ rỗng và là nơi tìm về chốn thiêng, như vậy cần có chăng một môi trường thiên nhiên giúp ra khỏi những lo âu thường ngày để gặp gỡ Thiên Chúa trong sâu thẳm của lòng người.

4. Ngày nghỉ - Kỳ nghỉ - Chúa Nhật.

Thần học về những ngày nghỉ là bắt nguồn từ sáng tạo. Khi Thiên Chúa đã hoàn tất công trình tạo dựng trong sáu ngày, ngày thứ bảy Ngài nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi là một trạng thái Kenosis mà Thiên Chúa tạo dựng cho con người. Như vậy, “khi lập ra ngày Chúa Nhật, Thiên chúa muốn mọi người có thời giờ nghỉ ngơi và giải trí, để có thể chăm lo đời sống gia đình, văn hoá, xã hội và tôn giáo”.

Ngày Chúa Nhật trở nên một gánh nặng khi con người phạm tội, tội phạm xưa kia là việc bất tuân, ngày nay vẫn là một bất tuân. Bất tuân khi dùng ngày Chúa Nhật để tăng gia sản xuất, để làm hao mòn sinh lực trong những cuộc giải trí không lành mạnh hoặc phí sức cho những bữa tiệc cầu kỳ hao tốn.

Ngày Chúa Nhật theo truyền thống đạo đức công giáo, trước hết là ngày làm những việc lành - thực thi đức ái bằng hành vi khiêm tốn phục vụ người nghèo, người đau khổ. Kenosis trong trạng thái này là dứt ỏ những thái độ bàng quan hằng ngày, do nhiều khi không thể chú tâm hết mọi điều trong khi làm việc. Đó là trạng thái ra khỏi chính mình để tập cuộc sống hướng tới người khác. Tuy xem là đức ái là tương quan với người khác, nhưng thật sự đức ái đó cũng làm cho đời sống của cá nhân thêm phong phú, tạo cho đời sống làm việc có một định hướng đầy nhân bản.

Thực hành ngày Chúa Nhật còn là một trạng thái Kenosis ra khỏi tính cá nhân thường ngày để sống các giá trị tương quan thân hữu. Gia đình là một cộng đồng gần gũi nhất mà đôi khi lại xa rời nhất. Trong khi cả tuần, mọi người việc ai nấy làm, không có đời sống chung thì ngày Chúa Nhật là ngày nuôi dưỡng đời sống tương quan các thành viên trong gia đình ấy. Ngày nay, các giá trị của đời sống gia đình chịu sự xáo món bởi vì không có nhiều thời gian để sống tương quan thân thích. Ngay cả những câu chuyện trao đổi giữa vợ và chồng cũng là những trao đổi liên quan đến tài chánh, những vấn đề trách nhiệm nuôi dạy con cái, do đó, những giá trị khác của gia đình dễ bị bỏ rơi và đổ vỡ. Như vậy, ngày Chúa Nhật cũng là ngày trút bỏ lối sống riêng tư dễ bị đẩy vào ích kỷ để sống hoà hợp với mọi người trong gia đình để cùng cảm thông chia sẻ. Sống hoà hợp trong gia đình của từng cá nhân mới sống hoà hợp trong xã hội.

Ngày Chúa Nhật cũng là thời gian suy tư tĩnh lặng, tìm giá trị thiêng liêng cho con người, truyền thống Kitô giáo mời gọi người Kitô hữu đến với Chúa để tyrút gánh nặng đời sống cho Người “Hãy mang lấyy ách của ta, hãy học cùng ta,” là một lời mời gọi đổ rỗng tâm linh đến gặp gỡ Thiên Chúa.

Ngày Chúa Nhật trọng tâm ý nghĩa của nó là giải thoát khỏi tình trạng nô lệ cho tội lỗi, ý nghĩa sống đích thực của ngày Chúa Nhật là làm mới lại tư cách làm chủ của mình đối với công trình sáng tạo.

Không thể có một tương lai hạnh phúc nếu con người cứ bước đi trong tăm tối. Hãy đến với Đức Kitô, đối với những ai gánh nặng và cồng kềnh tội lỗi, để được Đức Kitô hồi sinh và phần đóng góp của con người là làm sáng mắt những kẻ mù loà, là tình trạng sinh ra Đức Kitô trong tâm hồn của anh chị em.

Kỳ nghỉ và ngày nghỉ cũng mang những ý nghĩa của ngày Chúa Nhật, khác nhau chăng kỳ nghỉ dài hơn ngày nghỉ. Đó là một nhu cầu cần thiết để kinh nghiệm hơn về tình trạng kenosis của từng cá nhân (Bài này sẽ viết sau).

Học sinh cần được nghỉ hè, đi chơi, tìm nơi giải trí. Đó là thời gian để tái hồi lại chất xám đã tiêu hao trong thời gian chu kỳ học tập. Thế nhưng, học sinh ngày nay, lại chịu gánh nặng việc học quá tải, học sáng, học chiều, tối về học thêm, học luôn ngày chủ nhật, học sang cả mùa hè, “Học mãi, học mãi”, hậu quả một thế hệ trẻ không ngu ngơ thì cũng bị trầm cảm. Tương lai sẽ về đâu khi học cũng tăng năng suất?

Các Công nhân, nhân viên được hưởng chế độ nghỉ hằng năm là một tiến bộ của xã hội, cần có kỳ nghỉ để làm mới lại nguồn sáng tạo và tăng cuờng sức khoẻ cho mỗi cá nhân. Thiếu những ngày nghỉ hiệu năng sẽ giảm sút, chất lượng của cuộc sống sẽ kém.

Thời gian sống không đo bằng tháng năm dài, nhưng được đo lường bằng chất lượng của cuộc sống, một người nào đó đã nói như thế. Thật là xứng đáng để theo đuổi lời mời gọi của Giáo Hội là làm cho trần thế này là nơi cho con người sống và sống xứng đáng là một con người. Làm cho trần thế này dồi dào sự sống và sống với tuổi trẻ của Đức Giêsu Phục Sinh.

Thánh Mẫu Điện, Tân Hoà.

Mùa Chay 2003.

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Trích VietCatholic News (Thứ Tư 9/4/2003)