Chúa Nhật Lễ Lá B  

Nỗi đau sâu kín nhất

Nỗi niềm hoài cổ của chúng ta thường xuất phát từ quan niệm rằng đau khổ là một yếu tố đặc biệt trong thời đại chúng ta. Chúng ta mong chờ sự giải thoát; nuối tiếc "những ngày oanh liệt xa xưa" - như "Noble Savage," "Merry old England," "Gay Nineties" hoặc "Roaring Twenties."* Chúng ta nhớ nhung quá khứ huy hoàng, nhưng khi xét kỹ, "những ngày oanh liệt xa xưa" ấy xem ra cũng chẳng có gì huy hoàng cho lắm. Chúng ta biết trong thời "Noble Savage," nạn đói thường xuyên xảy ra và tử xuất trẻ em khá cao;  trong thời "Merry old England," nạn sâu rầy và bạo chúa cũng dẫy đầy nước Anh. Và mặc dù thán phục Vạn Lý Trường Thành hùng vĩ ở Trung Hoa hoặc Kim Tự Tháp kỳ công bên Ai cập, chúng ta không thể quên được bao nhiêu nước mắt và máu đã đổ ra khi những kỳ quan ấy được xây dựng.

Khi bàn về quá khứ chúng ta có khuynh hướng thi vị hóa thời quá khứ xa xăm, Sean O'Faolain, một nhà văn Ái nhĩ lan, có lần đã nói: "Bạn đừng nhìn lại những thời oanh liệt xa xưa, thời oanh liệt chính là hiện tại." Thừa nhận hiện tại là một thời oanh liệt thật không dễ chút nào. Khi nói về những đau đớn, tổn thương, bệnh nạn, ray rứt, lo lắng, bạo lực hoặc chán chường, chúng ta thấy thời đại này ứ đầy một cách bất thường những hình thức thử thách khiến mỗi người chúng ta đều muốn cảnh báo các công dân tương lai đừng thi vị hóa thời đại của chúng ta như một "thời oanh liệt." Năm ngoái, tại Hoa Kỳ, 18,500 tấn aspirin đã được tiêu thụ, khiến ta tưởng đó là một quốc gia nhức đầu khủng khiếp.

Nếu nghĩ nhiều về đau khổ thể lý hoặc tinh thần, chúng ta tự nhiên thấy mình phản đối các mầu nhiệm khôn dò này. Đau khổ thể lý, chẳng hạn, có thể được coi như phục vụ một mục đích. Những dây thần kinh trên da là một hệ thống báo động, giúp chúng ta biết lớp mô trên cơ thể bị hư tổn. Một số người, khá hiếm, vì thiếu khả năng cảm nhận đau đớn, nên khi gặp nguy hiểm, bị gẫy xương hoặc bỏng da, vẫn không hay biết. Tuy vậy, giải thích đau đớn của một bệnh nhân ung thư vào trong những tuần lễ cuối đời khi hệ thống thần kinh cảnh báo dường như không còn hữu hiệu nữa lại là một chuyện khác. Thế còn đau khổ tinh thần thì sao? Nhất là khi lên đến cực độ. Đau khổ tinh thần, dù vô hình, nhưng thực sự là một thống khổ, làm tê liệt thể xác và uể oải tinh thần. Một điều khó hiểu nữa là nỗi khổ đau của người này rất khác với người nọ. Khả năng chịu đựng đau khổ của mỗi người cũng dị biệt như nhân cách của họ vậy.
Để mô tả đau khổ, từ ngữ thích hợp và đơn giản nhất là "đau." Còn cách thức mô tả đau khổ chính xác nhất như một mầu nhiệm sâu xa trong cuộc sống có lẽ là của một sinh viên thông minh trong lớp kịch nghệ Hy lạp. Giáo sư giảng, theo người Hy lạp, chúng ta nhờ đau khổ mà hiểu biết, nhưng sinh viên kia đáp lại, "Chúng ta hiểu biết là chúng ta đau khổ."
 

Qua biến cố bi thảm được kể lại trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu, ngay từ khi khởi đầu sứ vụ, đã xúc động trước đau khổ của người khác. Khi bị những người Pharisiêu chất vấn vì sao năng đi lại với các thành phần bị xã hội loại bỏ, Chúa Giêsu đã trả lời, "Những người mạnh khỏe không cần thầy thuốc, nhưng là những kẻ đau yếu" (Mc 2:17). Chúa Giêsu tinh tế vô song trước nỗi thống khổ của tha nhân. Khi gần gũi với những người đau khổ, chúng ta nhận ra vết thương nhức nhối nhất của họ chính là nỗi cô đơn. Chúng ta không thể chịu giùm cho họ; không thể cùng chịu với họ. Nỗi đau ấy là của họ và riêng họ, cũng như những cảm giác chúng ta cảm nghiệm là của riêng chúng ta. Chúa Giêsu đã phá đổ những rào cản ngăn cách chúng ta với nỗi đau của tha nhân. Con Thiên Chúa đã cảm nhận cái đau của chúng ta, mặc lấy đau khổ của chúng ta, và cùng chịu đau khổ với chúng ta. Thánh Phaolô viết, "Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế" (Pl 2:6-7). Vì đã "tự hủy" mình, trở nên một người giữa chúng ta để chia sẻ gian truân khốn khó với chúng ta, nên trong giờ phút khổ thống tột cùng tại vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã quay sang các Tông Đồ và nói, "Thầy buồn phiền đến nỗi chết được."

Khác với mọi hình thức đau khổ khác, nỗi nhục nhã gây ra một nhức nhối đặc biệt. Trong những đau khổ con người phải chịu, không có nỗi đau nào giống như nỗi đau khi bị nhục nhã. Con Thiên Chúa đã tự hủy mình, từ khi giáng sinh nơi hang đá Bêlem cho đến khi chịu chết trên đồi Canvê, nhục nhã nối tiếp nhục nhã. Ngay buổi đầu Chúa ra đi thi hành sứ vụ, thân nhân và bạn hữu cho Người là điên dại. Chúng ta đọc Phúc Âm thánh Marcô, "Người ta đến bắt Người và nói rằng, 'Người đã mất trí'" (Mc 3:21). Các chức sắc trong đạo thì cho Người bị quỉ ám (Mc 3:22). Khi thuyền bị sóng biển đe dọa, các môn đệ đã trách Người chẳng quan tâm đến sống chết của họ (Mc 4:38). Người bị chế giễu vì bảo đứa trẻ mà người ta đang khóc thương vẫn còn đang sống (Mc 5:40). Có lần, trước phản ứng thiếu thiện cảm của người đồng hương về bài giảng tại hội đường, Chúa Giêsu đã trả lời, "Không tiên tri nào được vinh dự nơi bản quán, thân hữu và nhà mình" (Mc 6:4). Khi Chúa Giêsu tiên báo cho các Tông Đồ về biến cố nhục nhã cuối đời của mình, Người sẽ "chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các trưởng tế và ký lục chối bỏ" và bị tử hình, Phêrô đã cho rằng Chúa đã hiểu sai sứ vụ của Người (Mc 8:32). Chúa bị Giuđa phản bội, thân quyến bỏ mặc, bị Phêrô khước từ, bị bắt trói, đánh đòn, phỉ nhổ và lăng mạ, chịu đóng đinh thập giá, lưỡi đòng đâm thâu, chịu chế giễu qua bảng hiệu gắn trên thập giá, bị ô nhục chết trần giữa hai tên trộm cướp - nhục nhã cứ gia tăng cường độ hơn mãi. Và nhục nhã đã lên đến tột đỉnh trong giây phút cuối đời, khi Người "kêu lên một tiếng lớn và trút hơi thở sau hết." Thế là hết. Công cuộc của Chúa Giêsu kết thúc trong nhục nhã cuối cùng, nỗi nhục cực độ.

Con Thiên Chúa đã hủy mình, và qua đó, phụng sự thánh ý Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha dành cho chúng ta được biểu lộ trong sự tự hạ của Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã phụng sự thánh ý Chúa Cha qua việc phục vụ chúng ta thế nào, thì chúng ta được mời gọi phụng sự thánh ý Chúa Cha trong việc phục vụ anh chị em cũng như vậy. "Giữa các con, ai muốn làm lớn thì phải làm người phục vụ các con; và ai muốn làm đầu thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10:43-44).

Chúa Giêsu đã đến trần gian và mang lại một ý nghĩa mới mẻ cho đau khổ của chúng ta. "Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Ai muốn giữ mạng sống mình sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình thì sẽ giữ lại được" (Mc 8:34-35). Vì Con Thiên Chúa đã "buồn phiền đến chết," nên chúng ta sẽ không đau khổ luống công. Vì Con Thiên Chúa trước tiên đã tự hủy mình để chu toàn sứ vụ, nên chúng ta sẽ không chết vô ích. Đau khổ do mất mát, đau khổ bởi bệnh tật và bạo hành, đau khổ vì lo lắng, nhục nhã, không một đau khổ nào là vô ích đối với những người sống trong mầu nhiệm: Đấng Cứu Độ với Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa là một ; Thiên Chúa với Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của chúng ta là một.

Chúa Giêsu đã tự hủy: "Lạy Cha, Con xin phó linh hồn Con trong tay Cha" (Lc 23:46). Chúng ta còn mơ ước gì hơn? Chúng ta còn hy vọng làm gì hơn nữa? Dĩ nhiên không phải cứu độ thế giới một lần nữa, nhưng chỉ hoàn tất sứ vụ ấy. Công việc của chúng ta là gì nếu không phải là hợp nhất Chúa Giêsu Kitô để cứu độ thế giới?

Đền Thánh Khiết Tâm Mẹ


 

ÐạoBinh.com