Đamát là một
cuộc gặp gỡ, gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh. Đamát là khởi đầu cho một chuyến đi dài,
chuyến đi ta về với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đamát lúc đó là một ốc đảo rộng lớn nằm về phía Bắc Israel, tại bờ biên của sa
mạc Siri, được che chở bởi dãy núi Antilabanô, được tưới đẫm bởi những dòng suối
mát nhỏ Barađa và Abana, nên đã là một vùng rất phì nhiêu mầu mỡ. Đamát là nơi
dừng chân nghỉ ngơi và là trung tâm giao dịch quan trọng giữa các đoàn thương
gia thuộc các sắc dân Địa Trung Hải và Mêsôpôtamia. Vào thời Đức Giêsu và thánh
Phaolô, Đamát được cai trị bởi vua Arêta, dân Nabatêô (x. 2 Cr 11,32), dĩ nhiên
vẫn theo sự chỉ đạo của đế quốc Rôma. Như vậy Đamát là một thành ngoại đạo.
Vào thời đó, thông tin qua lại giữa vua Arêta và các thượng tế cho hiểu rằng có
một giáo phái mới đã xuất hiện. Thầy thượng tế đã triệu tập một người thân tín
đến, đó là Saun người thành Tácsô, một kinh sư trẻ tuổi, say mê Lề Luật Môsê
(Tôrah) và tha thiết phụng sự Thiên Chúa của tổ tiên. Saun nhận “thư giới thiệu
đến các hội đường ở Đamát, để nếu thấy những người theo Đạo – tuyên xưng Đức
Giêsu là Đấng Mêsia của Israel –, thì bắt trói giải về Giêrusalem” (Cv 9,2).
1. Biến cố Đamát
Cùng với một đoàn tùy tùng của thầy thượng tế, Saun lên đường. Họ bước đi dưới
ánh nắng chói chang trong một sa mạc cát đá trơ trụi… và tiến dần về Đamát, nơi
các suối nước đang chờ đợi họ, để dưới bóng những cây chà là mát mẻ, họ sẽ rửa
gương mặt ram rám và ran rát vì nắng và vì cát, và súc miệng vì cát mịn cứ len
vào dù miệng đã che khăn kín.
Bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời rọi xuống làm mù mắt Saun. Ông ngã
xuống đất và nghe một tiếng nói: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Đá lại
mũi nhọn thì khốn cho ngươi”. Kinh ngạc, ông hỏi: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”. Câu
trả lời đến ngay tức khắc: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ”. Run rẩy hốt
hoảng, ông thưa: “Lạy Chúa, con phải làm gì?” Câu trả lời ngắn gọn và bí ẩn:
“Ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm
gì”. Saun đứng dậy, mắt vẫn mở, nhưng không thấy gì (x. Cv 9; 22; 26). Làm sao
ông không nhớ là cả Têphanô cũng có một thị kiến, lúc đã sắp chết vì bị ném đá.
Saun đã hiểu: Đúng rồi, như vậy rõ ràng là Giêsu vẫn tiếp tục nói vào ngày hôm
nay.
Người ta đã cầm tay dắt ông vào Đamát. Suốt ba ngày, ông không nhìn thấy, cũng
chẳng ăn, chẳng uống. Chắc chắn ông đã cầu nguyện nhiều và xin Thiên Chúa của tổ
tiên soi sáng cho ông.
Khi ấy, một môn đệ ở tại Đamát tên là Khanania có một thị kiến. Đức Giêsu Phục
Sinh nói với ông: “Khanania, đứng lên, đi tới phố Thẳng, đến nhà Giuđa tìm một
người tên là Saun quê ở Tácsô. Người ấy đang cầu nguyện”. Nghe nói đến Saun,
Khanania rất ngần ngại, nhưng rồi đã vâng lời Đức Giêsu, đến gặp Saun. Ông đã
đặt tay chữa lành mắt cho Saun và cho Saun chịu phép rửa. Dĩ nhiên, chúng ta có
thể hiểu là Saun đã bày tỏ lòng tin vào ơn tha tội, nhờ Đức Giêsu đã sống lại và
đang sống; ông cũng đã tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, được sinh ra mà
không phải được tạo thành, đồng bản tính với Thiên Chúa Cha. Và ông đã rao giảng
như thế ngay vào ngày sabát kế đó. Thị kiến trên đường Đamát cứ dai dẳng đeo
đuổi Saun. Như vậy, rõ ràng Giêsu vẫn đang sống.
2. Những khám phá tiệm tiến
Chúng ta có thể nghĩ đến một buổi sáng kia, Saun thức dậy, đọc ngay lời kinh ban
mai: “Lạy Chúa là Thiên Chúa vũ hoàn, chúc tụng Chúa đã tạo nên con là Do-thái
chứ không là gôy (dân ngoại), đã tạo nên con là người tự do chứ không nô lệ, đã
tạo nên con là nam chứ không phải là nữ”. Rồi hẳn là ông đã im lặng thật lâu,
ông suy nghĩ. Ông như chợt bừng tỉnh: Nếu Giêsu vẫn sống, thì Người đã phá đổ
bức tường ngăn cách giữa Israel và dân ngoại, chia cách người tự do với kẻ nô
lệ, và chia cách đàn ông với đàn bà. Sau này Phaolô sẽ viết như thế trong Thư
Êphêxô (Ep 2,14-18). Vậy thì lời chúc tụng đó không còn ý nghĩa nữa, bởi vì bây
giờ không còn Do-thái và gôy nữa, không còn người tự do và nô lệ nữa, không còn
đàn ông hay đàn bà nữa. Tất cả mọi người chỉ là một trong Đấng Mêsia phục sinh.
Đây là sự duy nhất mà Đức Giêsu đã mang lại.
Ít ngày sau, ông bị thôi thúc đi xuống Ả-rập (x. Gl 1,17), ông đi đến núi Sinai,
vì là chính trên ngọn núi này mà Tôrah đã được Thiên Chúa ban cho con dân
Israel. Phép rửa tội do Khanania ban đã làm cho ông trở nên con người mới, nhưng
ông vẫn chưa thấy mọi sự rõ ràng. Tại Sinai, Saun chờ đợi cuộc viếng thăm của
Thánh Thần Chúa. Chính tại đây mà ông hết sức ao ước được gặp Giêsu, để đặt ra
cho Người vô số câu hỏi. Biết đâu Giêsu chả là Môsê mới, đến ban Tôrah chung
kết? Làm thế nào mà Giêsu lại có thể cho rằng Người là Con Thiên Chúa?
Saun chờ đợi mà trời vẫn đóng kín. Thế mà chính tại đây xưa kia trời đã mở ra và
Môsê đã nhận được Tôrah. Nhưng rồi Saun đã hiểu: “Trên đường Đamát, tôi đã thấy
trời mở ra và cả Têphanô cũng đã thấy trời mở ra”. Ô, vị rabbi người Nadarét ấy,
ông Giêsu ấy, thật là khác thường. Người đã mạc khải Tôrah cho chúng ta theo
cách độc đáo. Chính Người đã mạc khải cho ông trên đường Đamát chứ không phải
trên núi thánh Sinai này, cũng như chính Người đã cho Têphanô thấy cửa trời rộng
mở khi ông ấy sắp chết vì bị ném đá, chứ không phải trong khi ông ấy cầu nguyện
trong Đền Thờ. Chính Người đã cho mình hiểu Thiên Chúa ban Lề Luật trên núi
Sinai cho Dân mình, là để chuyển đến cho toàn thể dân ngoại. Thiên Chúa yêu
thương mọi dân tộc qua việc tuyển chọn dân Israel. Một khám phá kinh thiên động
địa!
Ông lại trở về Đamát. Đi trong sa mạc, ông đã sống lại lịch sử của dân ông, đoàn
dân như đã được “rửa” trong biển khi rời Ai cập. Ông suy ngẫm về truyện Giacóp
trốn Kharan đã thấy một chiếc thang bắc lên tới trời. Saun như đang sống lại
cuộc Xuất hành. Bây giờ ông tiến đi theo vị hướng đạo tên là Giêsu, Người không
bỏ rơi ông, nhưng vẫn nhắc lại: “Saun, tại sao bắt bớ Ta?”
Trở lại Đamát bây giờ ông đã nắm chắc rằng Giêsu là Con Thiên Chúa, ông đã hiểu
rõ ý nghĩa chiếc thang Giacóp, tiên báo cây thập giá. Với bất cứ giá nào, ông
muốn thuyết phục người Do-thái Đamát, trong ngày sabát tới đây, tại hội đường,
rằng Giêsu đã chịu đóng đinh vào thập giá trong tình trạng yếu đuối, nhưng nay
Người đang sống trong quyền năng Thiên Chúa. Chỉ duy mình Người mới có thể mang
lại ơn cứu độ cho toàn thế giới. Người không những là Đấng Mêsia của Israel, mà
còn là Con Thiên Chúa. Đây là những khám phá tiệm tiến, sau này được ghi trong
các trang thư của Phaolô.
“Vâng, Saun đã viết, Đấng Mêsia là một sự tỏa rạng vinh quang Thiên Chúa, là
hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Người là trưởng tử của mọi thọ tạo, và là
trưởng tử giữa những người quá cố. Thiên Chúa đã muốn cho ở nơi Người tất cả sự
viên mãn của thần tính và nhờ trung gian Người mà giao hòa với mọi loài thọ
sinh. Bằng thập giá của Người, Người đã tạo bình an trên trời dưới đất” (x. Cl
1,15-20).
Vậy thì một hệ luận rõ ràng được rút ra, và Phaolô đã rút ra: “Anh em cũng vậy,
hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa,
trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6,11). Chúng ta luôn luôn phải chọn lựa. Saun biết
mình đã phụng sự Thiên Chúa sai hướng, nay ông chọn lại: chỉ nhờ đi theo Đức
Giêsu Phục Sinh, ông mới biết cách phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.
Vào năm 1940, hãng Walt Disney xuất bản cuộn phim hoạt hình thứ hai, tên là
Pinocchio, con rối bằng gỗ được điều khiển bằng các sợi dây, nay thành người do
quyền phép của Bà Tiên Xanh; cậu Pinocchio thật là đần độn. Cậu ta không vâng
lời người đã làm ra cậu và vẫn coi cậu như con, đó là ông Geppetto. Cậu lại nghe
theo lời kẻ xấu là một Con Mèo ranh mãnh như Cáo. Mặc dù cậu có một cái đầu bằng
gỗ, cậu lại tin rằng đầu của cậu thông thái, và cậu tự do đi theo các ước muốn
của cái đầu, không phải nghe lời ai cả: “Tôi không còn dây trên người tôi nữa!”,
nghĩa là không theo kẻ xấu đã đành, mà cũng chẳng theo người tốt; cậu theo cậu!
Chính vì thế, cậu đã rơi vào biết bao nhiêu tình huống thê thảm.
Thật ra chỉ có hai chọn lựa trong đời ta, như thánh Phaolô nói rõ: vâng theo
tội, thì chết, hoặc chết cho tội và sống cho Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu.
Cho dù chúng ta đang sống cho Thiên Chúa, chúng ta vẫn nghe được lời mời gọi
ngọt ngào tha thiết của Tội (đó là ích kỷ, gian tham, giận dữ, độc ác, trả
thù…). Thế nhưng chúng ta không thể chết cho tội, nếu không cố gắng sống cho
Thiên Chúa. Lý do tại sao chúng ta không màng tới người chủ cũ là Tội, là vì
chúng ta quá bận phục vụ người chủ mới [là Thiên Chúa]. Càng ra sức phụng sự
Thiên Chúa, ngày càng tự do giao phó đời mình cho Ngài, nhờ đi theo sự hướng dẫn
của Đức Giêsu Phục Sinh, chúng ta càng nên “người” hơn, thì tiếng nói của tên
chủ gian ác là Tội cũng yếu dần và rồi sẽ chết hẳn.
3. Cuộc sống của người đã gặp Chúa Kitô Phục Sinh
Biến cố Đamát cho thấy rõ ràng Thiên Chúa có giờ cho từng con người: từ một Saun
kinh sư nhiệt thành hung hãn tại Giêrusalem, Đức Giêsu Phục Sinh đã biến thành
một Phaolô say mê loan báo Tin Mừng, khởi đi từ Đamát. Riêng Phaolô, sau này,
ông đã gọi biến cố Đamát bằng một công thức trong thư 1 Côrintô: “thấy (= gặp)
Đức Giêsu” (1 Cr 9,1). Đây là giờ phút nghiêm trọng và cốt yếu trong đời vị Tông
đồ. Nếu không có biến cố này, thế giới chỉ có một Saun miệt mài trong lầm lạc,
bế tắc, như “đá vào mũi nhọn”. Khi đã gặp Đức Kitô Phục Sinh, một Saun đang hung
hãn đi làm giảm thiểu con số các Kitô hữu, đã trở thành một Phaolô say sưa đi
làm tăng số các Kitô hữu. Ước gì đã khám phá ra Đấng Phục sinh, chúng ta mãi mãi
là Giuse, Phêrô, Maria, Têrêsa…, những tín hữu của ngày được gặp Đức Kitô Phục
Sinh trong các bí tích (rửa tội, Thánh Thể). Đừng như Phêrô: lúc đầu ông là
Simôn; khi gặp Đức Giêsu, ông đã được Thầy đổi tên là Phêrô, cái tên hào hùng
của sứ vụ, cái tên tuyệt vời cho đời sống Hội Thánh. Thế nhưng khi vào Vườn Ôliu
với Thầy, ông đã sa sút, khiến Thầy chỉ có thể gọi lại cái tên đã bỏ đi: “Simôn,
anh ngủ à?”. Ông không xứng đáng gọi là Phêrô nữa; ông lại trở về làm Simôn! Lại
chính thiên thần của Đức Giêsu Phục Sinh nhắn qua các phụ nữ để Simôn hiểu là
Người đã tha thứ cho ông và đã hồi phục tư cách cho ông: “Xin các bà về nói với
môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilê trước các ông” (Mc 16,7). Còn
Phaolô, ngài có thể nói: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô
sống trong tôi. Tôi sống kiếp sống con người tôi trong niềm tin vào Con Thiên
Chúa, là Đấng đã yêu thương tôi và thí mạng vì tôi” (Gl 2,20). Nhưng cái giá
Phaolô đã phải trả là 30 năm bôn bao lao nhọc, vào sinh ra tử, để diễn tả cho
trọn tình yêu đối với Đức Kitô.
Để cho những biến cố trong đời ta, cho ba ngày tĩnh tâm này, là một “con đường
Đamát”, cần nhận ra Đức Kitô Phục Sinh có mặt, cần nhận thấy Người đang chỉ cho
ta một hướng đi. Vậy, cần phải liên tục bước theo Đức Giêsu Phục Sinh, đối thoại
với Người, lắng nghe Người chỉ vẽ, và áp dụng giáo huấn của Người vào đời sống.
Vì vậy, rất nên tập hỏi Chúa Giêsu liên tục như thánh Phaolô: “Lạy Chúa, Chúa
muốn con làm gì?” Chúng ta cũng tập hỏi liên tục như thánh Phanxicô Assisi: “Lạy
Chúa, Chúa là ai, và con, con là ai?”. Thật ra, các câu hỏi ấy đã là những câu
trả lời…
Lạy Chúa Giêsu, Chúa vẫn dẫn con đi, mà con cứ tưởng con đi bằng sức mình. Chúa
chờ đợi con, mà con lại tưởng là con tìm ra Chúa. Chúa dạy con về Chúa Cha và
Chúa Thánh Thần, mà con lại cứ nghĩ con đã khôn ngoan khám phá ra. Nay con đã
hiểu. Xin Chúa tiếp tục dạy con, để con có thể tiến đi trên con đường của Chúa,
con đường công chính.