“
Thật, Tôi bảo thật các ông : nếu các ông không ăn thịt và
uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.” ( Ga
6, 53 ). Khi Chúa Giêsu đã dùng kiểu nói trịnh trọng theo văn phong
thời bấy giờ “ thật, Tôi bảo thật.. ( Amen…Amen…)” thì không
chỉ nói lên tầm quan trọng của nội dung lời tuyên bố mà còn nói
lên tính tất yếu và thiết yếu của chân lý đối với thính
giả bấy giờ và nhân loại mọi thời. Căn cứ vào những lời Chúa
Giêsu tuyên phán ở trên, chúng ta thử hỏi rằng những thính giả
lúc bấy giờ, thực sự có sự sống nơi họ không. Hay nói cách
khác, cần phải đặt vấn đề : sống là gì ?
SỐNG LÀ GÌ ?
Một câu hỏi không dễ trả lời. Câu trả lời khá phổ thông :
sống là động. Trạng thái động đối lập với trạng thái
tỉnh ( bất động ). Trạng thái này có thể là di động, chuyển
động, cử động hay hành động. Nếu mô tả tình trạng sống là
trạng thái động, thì vừa thái quá lại vừa bất cập. Các khoáng
sản như đất đá hay lớn hơn như quả địa cầu, các tinh tú…chúng
hằng di động và đang chuyển động. Vậy chúng đang sống ư ?
Với sinh vật bậc cao là con người, nếu ở trong tình trạng hôn
mê, không còn hành động cũng chẳng cử động thì đã chết chưa
?
Dưới cái nhìn sinh hóa thì sống là một quá trình tổng hợp và
trao đổi các hợp chất hữu cơ. Các học giả trình bày khái
niệm : sống là tồn tại có trao đổi chất với môi trường bên
ngoài, có sinh đẻ, lớn lên và chết. Một số triết gia vừa
thực tế vừa phũ phàng cho ta thấy sống là một quá trình tích lũy
năng lực : sức khỏe, tiền bạc, địa vị…để tiến dần về
nấm mộ ( cái chết ).
Quả thật nếu quan niệm sống như là một tình trạng đối lập
với chết thì cuộc sống của con người trên bình diện thể lý
tự nhiên đúng là nghịch lý và phi lý. Và rồi người ta dễ dàng
đồng quan niệm với anh em Phật tử rằng cuộc sống ( đời ) là
bể khổ với cái vòng lẫn quẩn thành - trụ - hoại – không;
sinh - lão - bệnh - tử.
Dưới nhãn quan Kitô giáo theo ánh sáng Lời mạc khải thì sống là
một trạng thái, đúng hơn là một động thái ở cùng, ở với và
ở trong Đấng là nguồn sống, là Đấng Sáng tạo, là căn nguyên
và cùng đích của mọi hiện hữu, đặc biệt của loài người.
Con người khi tự ý cắt lìa, xa rời Thiên Chúa là đi vào cõi
chết hay là đã chết, cho dù cơ thể còn sinh động, còn tổng
hợp các chất hữu cơ…
Sách Sáng Thế ký diễn tả chân lý này khi cho thấy loài bụi đất
chỉ thực sự là sống khi được Giavê thổi sinh khí vào ( x. St
2,7 ). Đến đây chúng ta mới hiểu được ý nghĩa lời Chúa trong
sách Đệ Nhị Luật khi Giavê thử thách dân Người trong hoang
mạc, khi để họ phải chịu đói cùng cực rồi ban Manna từ
trời nuôi sống họ để họ ý thức, đúng hơn là đẻ họ tin
nhận rằng : “người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng bởi
mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” ( Đnl 8,3 ).
“ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ
được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt
Tôi đây, để cho thế gian được sống” ( Ga 6,51 ). Một lời tuyên
bố công khai gây nhiều tranh cãi cho thính giả bấy giờ. Quả là
chối tai ! Nhưng đó là sự thật, một sự thật nền tảng và
thiết yếu cho con người đến nỗi Chúa Giêsu trình bày một cách
thẳng thừng tới mức “sống sượng”, không chút rào đón xa
gần. Người còn tái khẳng định chân lý ấy ở dạng thức đối
nghịch : “ Thật, Tôi bảo thật các ông : nếu các ông không ăn
thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình”
( Ga 6,53 ). Chúng ta nhận ra tính tất yếu và khẩn thiết của chân
lý này qua thái độ của Chúa Kitô là sẵn sàng chấp nhận người
ta, kể cả các môn đệ rời bỏ Người, ngoại trừ nhóm Mười
hai ( x.Ga 6,60-71 ).
ĐỂ THỰC SỰ LÀ SỐNG CẦN PHẢI ĐÓN NHẬN NGUỒN SỐNG TỪ
THIÊN CHÚA VÀ HÀNH XỬ THEO SỰ SỐNG THIÊN LINH.
Thiên Chúa có thể ban cho nhân loại sự sống của Người dưới
nhiều dạng thức khác nhau. Mình Máu Chúa Kitô chính là một trong
những phương thế đặc biệt Chúa ban sự sống của Người cho nhân
loại chúng ta. Là Kitô hữu, chúng ta dễ dàng tin nhận chân lý này
hơn người Do Thái xưa, vì chúng ta tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Thiên
Chúa thật. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là chúng ta có biết sống,
cư xử, hành động theo nguyên lý hoạt động của sự sống Thiên
Chúa không.
Sự sống của Thiên Chúa chính là tình yêu giữa Ba Ngôi, Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tình yêu ấy được tỏ bày qua dòng
lich sử, qua lịch sử ơn cứu độ và được tỏ bày cách trọn
vẹn, hoàn hảo cho nhân loại nơi Đức Kitô, Ngôi Hai nhập thể làm
người. Dựa vào lời mạc khải và qua lời dạy của Đức Giáo
Hoàng Bênêđictô XVI trong Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng
ta cùng xem xét một vài sắc thái của tình yêu Thiên Chúa :
Một tình yêu thể hiện qua tình bạn ( Filia ) : Ngay từ thưở đầu
công trình sáng tạo, Giavê đã ngày ngày dạo chơi với con người
và con người ở trước nhan Giavê cách thân tình như bạn hữu.
Sau khi phạm tội thì con người mới lánh mặt Giavê (x. St 3,8 ).
Khi đã biết đến giờ phải bỏ thế gian mà về cùng Cha, Chúa Giêsu
đã tỏ bày cho các môn đệ : “ Thầy không còn gọi anh em là tôi
tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy đã
gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi
Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” ( Ga 15,15 ).
Đã là bạn hữu chân thành thì luôn tín nhiệm nhau. Sự tín
nhiệm được thể hiện không chỉ qua việc tỏ bày cho nhau cả
những sự sâu kín của mình mà còn sẵn sàng trao phó trách
nhiệm, cả trong những việc lớn lao, cao cả lẫn hệ trọng. “ Hãy
sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị
mặt đất. Hãy bá chủ cá biển, chim trời…” St 1,28 ). Ngay từ
đầu Giavê đã trao phó nhiệm vụ làm chủ vũ trụ thiên nhiên cho
con người. Đến thời viên mãn Chúa Kitô lại trao phó việc rao
giảng Tin Mừng cứu độ cho các môn đệ ( x. Mt 28,16-20 ).
Một tình yêu thể hiện qua việc đón nhận và trao ban ( Eros và
Agapê ) : Khi tạo dựng con người Giavê Thiên Chúa đã sáng tạo loài
tạo vật hữu hình cao cả nhất là loài người giống hình ảnh và
họa ảnh của mình ( x. St 1,26-27 ). Có thể nói đây là một sự
đón nhận toàn vẹn. Xem ai như chính mình là một sự đón nhận
hết cả tấm lòng. Trên thập giá, đôi tay của Chúa Kitô giang ra,
Trái Tim cực thánh của Người mở tung, là hành vi tình yêu đón
nhận cách hoàn hảo và trọn vẹn. Người đón nhận cả những
lời hoan hô Người khi Người vào thành thành Giêrusalem lẫn cả
những lời nhục mạ khinh khi của nhiều người Do Thái bấy giờ.
Người đón nhận lời tuyên tín của Phêrô thay mặt nhóm Mười
Hai : “ Bỏ Thầy chúng con biết theo ai…” ( Ga 6,68 ) và đón
nhận cả sự phản bội, sự hèn nhát của các ngài khi bỏ Thầy
chạy cứu lấy thân mình. Người đón nhận nhiều vị lãnh đạo
Do Thái giáo thời bấy giờ vốn ghen tức tìm mọi cách loại trừ
Người và đón nhận cả sự mê lầm của họ ( x. Lc 23,34 ).
Khi đón nhận con người như là hình ảnh của mình, Giavê Thiên Chúa
đã trao ban chính công trình sáng tạo của mình, một công trình như
mới khởi đầu. Và Chúa Kitô khi đón nhận các môn sinh làm bạn
hữu thì Người đã trao ban công trình cứu độ mà Người vừa
khai mở. Khi đón nhận bản tính nhân loại vào Ngôi vị Thiên Chúa
thì Ngôi Hai đã thực sự trao ban chức vị làm con Thiên Chúa cùng
với gia sản thừa kế cho loài người.
Chính khi đón nhận là lúc trao ban. Chính lúc trao ban là lúc đón
nhận. Cả hai động thái trao ban và đón nhận luôn quyện lẫn vào
nhau trong một tình yêu đích thực. Và tình yêu ấy bắt nguồn
từ Đấng là Tình Yêu ( x.1Ga 4,8 ). Hôm nay chúng ta cùng tôn thờ
mầu nhiệm Chúa Kitô trao ban cho chúng ta chính Máu Thịt của Người
qua Bí Tích Thánh Thể. Hiện diện trong Thánh Thể là trọn vẹn Chúa
Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa với thiên tình và nhân tính của Người.
Trao ban cho ta Thân Mình Người là Chúa Kitô đón nhận chúng ta nên
một với Người. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định chân lý
này : “ Thưa anh em, khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên
Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Chúa Kitô ư ? Và khi ta
cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người
sao ?” ( 1 Cor 10,16 ).
Được dự phần vào Mình và Máu Thánh Chúa Kitô là để được
sống. Và sự sống đích thực này phải được thể hiện bằng tình
yêu. Đó là tình yêu sẵn sàng đón nhận tha nhân, cả ưu điểm
lẫn khuyết điểm, cả mặt nổi trội lẫn khía cạnh hạn
chế… Đó là tình yêu sẵn sàng trao ban những gì tốt nhất, đẹp
nhất của ta cho tha nhân và trao ban cả con người của ta, sự
sống của ta. Và đó phải là tình yêu luôn tìm cách nâng nhau lên
hàng bạn hữu. Nếu như được vậy, thì một điều chắc chắn là
chúng ta đang sống thực sự và thực sự đang sống cách dồi dào.